Site map
Tìm Kiếm Bài Đã Đăng

N‰u MiŠn Nam Th¡ng...
1021_6a00d83451b05569e20133ed092214970b-900wi
MauThan1968-pic01
tl-cot7
tl-qt-16
tmt1968-029
muahedolua_1972_bbb
quangtri1972-4
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2012
Trần Văn Tích

Cuộc chiến quốc-cộng vừa qua đã chấm dứt với sự chiến thắng của Miền Bắc. Có người đặt giả thuyết là nếu Miền Nam chiến thắng thì sẽ ra sao. Chẳng hạn ông Bùi Tín. Trả lời một cuộc phỏng vấn, ông Bùi Tín kể rằng : “Tôi đã gặp một số vị trong chế độ Sài Gòn cũ, có một vị là trung tướng nói với tôi rằng : “Nếu chúng tôi chiến thắng, tức miền Nam thắng miền Bắc, không chắc chính sách của chúng tôi đối với các ông đã hơn gì so với chính sách của các ông đối với chúng tôi. Có khi chúng tôi lại có những trại giam tàn bạo hơn.”
(1)

Hoặc chẳng hạn bạn đồng nghiệp Vũ Ngọc Tấn. Trên Tập San Y Sĩ số 193, tháng tư 2012, nơi trang 30, bác sĩ Vũ Ngọc Tấn viết : “Nay xin nêu lên một câu hỏi trong một trường hợp giả định. Nếu trong chiến tranh VN, thay vì cộng sản là kẻ chiến thắng nhưng đảo nghịch lại, ta - những người miền Nam - là kẻ chiến thắng, và miền Bắc sau những đợt oanh kích trải thảm.. đã quá kiệt quệ và đầu hàng, thì ta đã đối xử với những người CS miền Bắc như thế nào? Ta cũng làm đúng như họ đã cư xử với chúng ta (như đã nêu ở trên) - hay ta đối xử với họ như Bắc quân đã đối xử với Nam quân trong nội chiến Mỹ? Tôi nghĩ đây là một câu hỏi thành thực và đứng đắn, xin dành một chút suy nghĩ trước khi trả lời.

Không thể dành một chút suy nghĩ để trả lời câu hỏi của bạn Vũ Ngọc Tấn hoặc để phủ định ức thuyết do ông trung tướng nào đó đưa ra; bởi vì muốn làm việc này, cần vận dụng tư duy khoa học.

Tư duy khoa học chặt chẽ, hợp lý tiến hành theo một quy trình chính xác dựa vào một hệ thống quy tắc khiến cho những nhận xét và suy luận không tự mâu thuẫn. Trong khoa học thực nghiệm, đặc biệt trong khoa học ứng dụng - chẳng hạn trong y khoa - giả thuyết xây dựng trên cơ sở nhận xét và được thực nghiệm kiểm chứng (ví dụ thử nghiệm tác dụng của thuốc trên động vật rồi kiểm chứng trên người tình nguyện). Trong khoa học xã hội - như triết học, sử học, văn học, luật học, kinh tế học, chính trị học, ngôn ngữ học v.v..- là khoa học nghiên cứu những quy luật hình thành, hoạt động và phát triển của xã hội và của con người, nghiên cứu các quan hệ giữa con người với nhau - ví dụ giữa người cộng sản và người quốc gia - đóng vai trò kiểm chứng là kinh nghiệm, là lịch sử. Kinh nghiệm sống của miền Nam, lịch sử văn hoá của nó phủ nhận giá trị của giả thuyết do ông trung tướng đưa ra được ông Bùi Tín ghi nhận; đồng thời cũng phản bác ức thuyết do tác giả Vũ Ngọc Tấn trình bày, theo đó “Ta cũng làm đúng như họ đã cư xử với chúng ta“. Giả thuyết của ông trung tướng, ức thuyết của anh bạn họ Vũ đều không có cơ sở, đều vô căn cứ vì chúng không ăn khớp với hiện thực lịch sử loài người; vì chúng không có nền tảng luận lý, văn hoá, chính trị.

Chế độ Việt Nam Cộng Hoà là một chế độ thân Tây phương. Những người góp phần xây dựng, củng cố, bảo vệ nó - trong số có kẻ viết bài này - đều chịu ảnh hưởng các nền văn minh Âu Mỹ không nhiều thì ít. Cho nên có thể khẳng định là nếu Miền Nam chiến thắng trong cuộc chiến ý thức hệ thì chính sách đối xử với tù hàng binh đối phương không thể nào tàn ngược như chính sách của chế độ cộng sản, lại càng không thể tàn ngược hơn. Chỉ có hai chế độ đạt được tiêu chuẩn đối đãi phi nhân đối với các cộng đồng mình không ưa là chế độ quốc xã và chế độ cộng sản. Chế độ cộng sản còn hơn chế độ quốc xã ở tính cách mọi rợ đểu cáng.

Văn hóa Miền Nam là một nền văn hóa có căn bản nhân bản. Chủ nghĩa nhân bản tin vào con người, hướng con người đến mục đích mưu cầu hạnh phúc vật chất và tinh thần mà không xúc phạm nhân phẩm. Từ trào lưu sơ khởi với những Rabelais (Gargantua, Pantagruel), Du Bellay (Défense et illustration de la langue francaise), Montaigne (Essais) cho đến thế kỷ XX, humanisme đã thường xuyên phải chiến đấu với những hiện tượng hoặc những hệ thống phủ nhận cá nhân và giá trị con người của cá nhân; từ chống chiến tranh tàn sát nhân loại bằng kỹ thuật hiện đại đến chống độc tài quốc xã, chống đảng trị cộng sản vì chúng hủy diệt nhân tính. Hãy đọc Nineteen Eighty Four.

Chủ nghĩa nhân bản đó thấm đẫm nền văn hoá Miền Nam quốc gia, con người Miền Nam quốc gia hô hấp bầu khí quyển chân lý đạo đức do nó cung cấp, suy nghĩ hành động theo tư duy lý luận của nó. Khác hẳn và ngược hẳn với chủ nghĩa cộng sản của Miền Bắc trước 1975.

Việt Nam Cộng Hoà tuy là một xã hội có nhiều khuyết điểm nhưng vẫn là một xã hội chủ yếu xây dựng trên tinh thần nhân bản. Bởi thế tự thân cơ cấu nó có những đối lực, đối trọng; môi trường nội thể nó có những máy hãm, chất cản. Để khiến cho nó chẳng thể nào “có những trại giam tàn bạo hơn“ trại tập trung cải tạo cộng sản. Những đối lực, đối trọng, những máy hãm, chất cản, trong trường hợp chúng ta đang bàn, là dư luận báo chí quốc nội và quốc ngoại, là thành phần đối lập và chống báng. Nếu Miền Nam mà đày đọa người cộng sản thất trận như người cộng sản đã đày đọa người Miền Nam thất trận - chỉ như thôi, đừng nói hơn - là các ông Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan với các tờ báo Đối diện, Đứng dậy; các bà Kiều Mộng Thu, Ngô Bá Thành, ni sư Huỳnh Liên, ông nhà văn Vũ Hạnh, bà nhà văn Minh Quân; các tổ chức “tranh đấu đòi cải thiện chế độ lao tù“, các phe nhóm “phản đối chế độ chuồng cọp“ và hàng hàng lớp lớp những thành phần phóng viên, ký giả Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Úc, Phi, Nhật cùng với những trí thức chuyên gia “tiến bộ“ à la Erich Wulff, à la André Menras alias Hồ Cương Quyết
(2) v.v..và v.v..sẽ nhao nhao lên tố cáo, biểu tình, xuống đường, tuần hành, đốt xe hơi, đánh cảnh sát, hô khẩu hiệu, nằm vạ trước thềm Quốc hội, chiếm đóng trụ sở Đại học, lại v.v..và v.v.. Miền Nam từ bản chất không thể nào làm được như ông Bùi Tín nghĩ tưởng, lại càng không thể làm được như ông trung tướng giả dụ.

Miền Nam đã từng chiêu hồi hàng trăm ngàn người cộng sản. Trong khi đó thì chính con gái Staline đã rời bỏ chế độ Nga Xô-viết. Không có nhà thơ nào ở Miền Nam đề cao chủ nghĩa tàn sát đồng bào như Tố Hữu, như Xuân Diệu. Không có nhà văn nào hoan nghênh căm thù và sát nhân như Chế Lan Viên : “Chính vì thương yêu mà người cộng sản phải căm thù. Chính vì muốn cho ngày mai sẽ đến một xã hội không còn kẻ giết người, mà hôm nay ta phải tiêu diệt chúng nó.
(3)

Trong khi đó nhà thơ Cao Tần chủ trương:

Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng, ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương.

Cách mạng vô sản khác với cách mạng tư sản, theo học thuyết cộng sản. Một trong những sự khác biệt đó là : cách mạng tư sản thường kết thúc bằng việc nắm chính quyền nhưng đối với cách mạng vô sản thì nắm chính quyền chỉ là bước đầu của cách mạng, vì chính quyền mới sẽ được sử dụng làm đòn bẩy để cải tạo nền kinh tế cũ và tổ chức nền kinh tế mới. Thực tế lịch sử chứng minh rằng thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chuyên chính vô sản là thực hiện những sự cải tạo về kinh tế, xã hội và chính trị tại các nước được mệnh danh là dân chủ nhân dân, từ châu Âu qua châu Á, từ châu Phi qua châu Mỹ. Về mặt sinh học, đường lối câu thúc thân thể những phần tử thù nghịch đối kháng để làm công việc gọi là cải tạo họ dựa chủ yếu vào các học thuyết, chủ trương của những tác giả Nga hay Liên Xô cũ Timiriazev, Lyssenko, Setchenov, Pavlov; qua đó người dân được cải tạo hàng loạt trong nhà tù lớn xã hội chủ nghĩa. “Toàn bộ lịch sử chủ nghĩa cộng sản mang dấu ấn những tập thể xã hội hay chủng tộc bị tàn sát hay xua đuổi có hệ thống không phải vì những gì họ từng làm, mà vì những gì họ vốn là.“ : Jean-Francois Revel nhận xét như vậy trong cuốn sách liên quan đến tác phẩm Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản.
(4)

Những “tập thể xã hội hay chủng tộc“ được Jean-Francois Revel đề cập thì ở Việt Nam sau tháng tư 1975 không hề thiếu : ngụy quân, ngụy quyền, văn nghệ sĩ, nạn kiều người Hoa, giới tư sản và tư sản mại bản.
(5)

Trong lý luận, ý kiến cho rằng miền Nam mà thắng thì sẽ đối xử với Miền Bắc cũng tồi tệ như Miền Bắc từng đối xử với Miền Nam sau 1975, thậm chí có thể còn tồi tệ hơn, là một định đề. Từ định đề đó, tôi xin tiếp tục chứng minh qua hoàn cảnh lịch sử của nước Đức. Ai cũng biết rằng Tây Đức đã thắng Đông Đức, tư bản đã thắng cộng sản, tự do đã thắng độc tài. Không hề có trại tập trung học tập cải tạo. Điều này cả thế giới đều thấy và đang thấy. Các Ủy viên Trung ương Bộ Chính Trị đảng cộng sản Đức một số phải ra toà, nhưng chỉ bị lãnh án tương xứng với tội trạng; và họ đã được xử theo luật pháp của chính nước Cộng hoà Dân chủ Đức (Đông Đức)! Egon Krenz, Tổng Bí thư cuối cùng, chỉ lãnh án mấy năm rồi được Thị trưởng Berlin Klaus Wowereit ân xá. Erich Wolff, viên tướng không mặt chỉ huy cơ quan tình báo mật vụ Đông Đức Stasi, chết già trong một viện dưỡng lão. Sĩ quan không phải đảng viên cộng sản thuộc quân đội nhân dân được thu nhận vào quân đội liên bang. Thời gian phục vụ trong bộ máy công quyền cũ đương nhiên được tính vào thâm niên hưởng hưu bổng của công nhân viên chức về hưu sau ngày thống nhất. Vợ của thủ lãnh Đông Đức cuối cùng, bà Margaret Honecker, ung dung sống ở Chile với lương hưu bổng được chính quyền chuyển cho đều đặn hàng tháng. Bả còn kiện cáo chính quyền Angela Merkel vì cho rằng hưu bổng của mình không đúng tiêu chuẩn!

Thử dùng một tiên đề làm xuất phát điểm cho hệ thống lý luận ai thắng ai, nhiều người Đức đã đưa ra chuyện giả định rằng nếu Đông Đức chiếm được Tây Đức thì chuyện gì sẽ xẩy ra? Tờ nhật báo Bild, có số độc giả rất lớn, đã mời gọi độc giả góp ý về chủ đề liên hệ và người viết bài này cũng đã mượn chính hoàn cảnh bản thân và quê hương để gửi thư cho tờ báo đăng tải vào mục ý kiến độc giả.

Trong trường hợp này, Honecker đã có sẵn tư tưởng Marx-Engels-Lénine-Staline-Mao Trạch Đông, chỉ việc mang ra áp dụng chó đám quân công cán chính Tây Đức.

Có thể có người bảo Đức thống nhất trong hoà bình còn Miền Nam bị Miền Bắc chiếm đóng sau một cuộc chiến. Muốn trả lời, có thể vẫn dùng lịch sử hiện đại Đức để chứng minh. Khi thế chiến thứ hai chấm dứt, nước Đức bị quân đồng minh Anh Mỹ Pháp và Liên Xô chiếm cứ. Trên vùng lãnh thổ do Anh Mỹ Pháp quản trị, các viên chức cao cấp và sĩ quan Đức bị tập trung vào những trại câu lưu. Người Đức dùng chữ Internierung để chỉ biện pháp này.Trung bình họ bị giữ ba, bốn tháng. Họ bị an trí như vậy nhằm làm thủ tục thanh lọc để tìm kiếm các tội phạm chiến tranh. Có người bị chở sang Anh, sang Pháp. Không nghe người nào bị đưa sang Mỹ. Sau đó, họ trở lại đời sống dân sự, kiếm việc làm tự mưu sinh. Có người lập nghiệp luôn ở Anh, ở Pháp. Cấp tướng bị giữ lâu hơn nhưng cũng chỉ một hai năm. Viên tướng chỉ huy căn cứ quân sự Penemüde ở Bắc Đức, nơi từng bắn hàng loạt hoả tiễn sang Luân đôn, đã được cấp nhập cảnh sang Hoa Kỳ năm 1948. Cựu Tổng thống Richard von Weizsäcker của Đức từng là sĩ quan cấp uý trong binh chủng SS Schutzstaffel, đơn vị bảo vệ của chế độ phát xít, và nhà văn được giải Nobel văn chương Günter Grass cũng vậy!

Trong khi đó những người Đức do quân đội Nga Xô- viết bắt giữ bị đối xử khác hẳn. Họ bị đưa về giam giữ trên đất Nga, bặt tin tức gia đình, không biết đến ngày về. Họ phải lao động khổ sai để cải tạo. Họ bị đánh đập hành hạ, họ bị bỏ đói trong tuyết. Kẻ thắng trận tiếp tục xem họ là kẻ thù với tất cả ý nghĩa kinh hoàng của chữ đó. Khi Thủ tướng Adenauer lên cầm quyền, ông tích cực can thiệp cho họ, năm lần bảy lượt đích thân sang Mạc tư khoa năn nỉ thỉnh cầu chính quyền Nga Xô cho họ trở về nguyên quán. Tốn không biết bao nhiêu công của, cuối cùng rồi chế độ cộng sản cũng cho người tù hàng binh Đức qui hương. Nhưng thay vì cho họ về Tây Đức thì một số lại bị giao cho nhà cầm quyền Đông Đức, với lập luận người Đức thì về nước Đức, Đông Đức chẳng phải cũng là Đức hay sao? Cộng sản thì ở đâu và bao giờ cũng mọi rợ đểu cáng như vậy!

Thật ra phía đồng minh cũng có chương trình “cải tạo” dành cho người Đức. Chương trình này chủ yếu được ủy thác cho bộ Tham mưu quân đội Anh nghiên cứu thi hành trên toàn lãnh thổ Tây Đức, gọi là re-education. Nhưng nó không có “lên lớp,” không có “thu hoạch.” Nó chỉ có sách vở, báo chí, phim ảnh, phát thanh v.v…

Như vậy, và dẫu rằng người Anh, người Pháp, người Mỹ không hề là đồng bào đồng hương với người Đức, nhưng bởi vì chủ nghĩa nhân bản nhân đạo vốn là căn bản của nền văn minh văn hoá phương Tây - mà, như đã trình bày, Việt Nam Cộng Hoà chịu ảnh hưởng sâu đậm - nên người Đức phía Tây đã được đối xử như là những con người bại trận; trong khi người dân Đông Đức bị chủ nghĩa cộng sản Nga xem như một loài vật hạ đẳng.

Lý luận à la Vũ Ngọc Tấn về quốc cộng đôi chỗ khó chấp nhận. Chẳng hạn kiến giải được xem là hiển nhiên, chẳng cần chứng minh : “Trần Độ là người mà ta coi như là đã từ bỏ cộng sản và tìm về phía chúng ta.” (trang 28). Bằng chứng nào cho phép kết luận Trần Độ đã từ bỏ cộng sản? Những người như Trần Độ, Dương Thu Hương, Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần, Vũ Thư Hiên là những tín đồ của chủ nghĩa cộng sản và họ chưa hề lên tiếng từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Có chăng - trừ Trần Độ - họ chỉ tạm thời rời bỏ mảnh đất hiện đang do chế độ cộng sản thống trị. Hơn nữa, có người tiếp tục biện hộ cho chủ nghĩa Mác-Lênin. Họ lại càng không hề tìm về phía chúng ta, hai chữ “chúng ta“ được hiểu là phe quốc gia tự do dân chủ chống cộng. Bà Dương Thu Hương rất bộc trực, bà bảo bà không thèm chơi với “ngụy“. Ông Vũ Thư Hiên điềm đạm hơn, ông chỉ yêu cầu hội trường nào có treo cờ nền vàng ba sọc đỏ thì xin cho ông miễn đến. Chúng ta tự trọng nên chúng ta sẵn sàng tôn trọng lập trường của các nhân vật vừa kể. Tất nhiên tôn trọng lập trường của họ không hề có nghĩa là “sỉ nhục” họ. Trái lại, hoàn toàn trái lại. Và cũng chẳng phải vì vậy mà chúng ta vĩnh viễn đẩy họ về hàng ngũ những kẻ thù không đội trời chung của chúng ta. Vừa tự do vừa hữu trách, chúng ta chấp nhận sự “hội nhập“ của họ vào chính trường quốc gia nhân bản.
(6)

Trong quốc hội liên bang và trong hội đồng đại biểu một số tiểu bang của nước Đức thống nhất hiện đang có một số đảng viên Đảng Tả, Die Linke. Thủ đô Berlin hiện đang do một liên minh hồng-đỏ giữa SPD (khuynh hướng thiên tả) và Die Linke (cộng sản/thiên cộng) cai trị. Sahra Wagenknecht bảo rằng Stalin là người tốt. Gesine Lötzsch gửi thiệp chúc mừng sinh nhật Fidel Castro. Cả hai hiện đang là nữ dân biểu thuộc khối cộng sản/thân cộng. Về cơ bản vốn theo chủ nghĩa nhân bản nên nước Đức thống nhất hiện có một Tổng thống và một Thủ tướng đều xuất thân từ nửa nước Đức cộng sản cũ. Không thể nào có tình huống tương tự xảy ra, nếu Đông Đức chiến thắng Tây Đức. Đó là chân lý lịch sử.

Bài đã dài, tôi không muốn viết thêm. Thực ra muốn viết thêm thì còn nhiều điều đáng để viết thêm lắm.

Ba ngày trước ngày Quốc Hận 2012



(1) Bùi Tín.- Gà cùng một mẹ. Thiện Chí xuất bản. CHLB Đức. 1998. tr. 107.

(2) Erich Wulff là giáo sư Tâm thần học người Đức từng giảng dạy tại Đại học Y khoa Huế thuộc thành phần thân cộng. André Menras là một người Pháp. Theo các tin tức loan tải trên internet thì đương sự được Hồ Chí Minh đặt cho tên Việt là Hồ Cương Quyết. Menras thuộc thành phần phản chiến, từng treo cờ Việt cộng tại tượng đài Thủy quân lục chiến trước trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa.

(3) Chế Lan Viên.- Nghĩ cạnh dòng thơ. Nhà Xuất bản Văn Học. Hà nội. 1981. tr. 90.

(4) Horst Moller (Hrsg).- Der rote Holocaust und die Deutschen. Die Debatte um das “Schwarzbuch des Kommunismus“(Lò hoả thiêu đỏ và người Đức. Cuộc tranh luận xung quanh cuốn sách “Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản“). Piper Verlag. München/Zürich. 1999. tr. 249.

(5) Trong y khoa, sinh viên Miền Nam năm thứ hai khi học về Pavlov chỉ được học về phản xạ có điều kiện; trong khi đó, sách Sinh lý học Miền Bắc trình bày dông dài về học thuyết Pavlov, nhấn mạnh đến những định hình động hình thần kinh nhằm lý giải và biện hộ cho chủ trương học tập cải tạo với mục đích xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa. Lyssenko không được giới khoa học Miền Nam biết đến, trong khi Miền Bắc, theo Nga Xô-viết, nhiệt liệt đề cao học thuyết Mitchourin-Lyssenko; học thuyết này phủ nhận vai trò của gen, xem gen là duy tâm. Chính nhà khoa học vĩ đại của Miền Bắc, Giáo sư Bác sĩ Tôn Thất Tùng, cũng từng trồng ngô theo học thuyết Lyssenko. Tất nhiên ông không thu hoạch được ngô và cũng chẳng hái bẻ được bắp! Sinh lý học, di truyền học đều hùa nhau tích cực phục vụ cho chính trị.

(6) Một số lớn luận cứ trình bày trong bài này rút từ Trần Văn Tích.- Nhân tính tự bản chất đăng tải trên Làng Văn, số 193, năm 1999, từ trang 41 đến trang 44.


Loading
Tham dự Diễn Đàn