"Tết Mậu Thân 1968 sẽ được yên ổn," các nguồn tin ở Sài G̣n đă trấn an tôi khi liên lạc với họ trong thời gian nghỉ lễ Giáng Sinh ở căn nhà mới của tôi tại Hồng Kông. Họ nói rằng cả hai bên sẽ cam kết một lệnh ngừng bắn bẩy ngày từ ngày 27 tháng Giêng đến ngày 3 tháng 2 để dân chúng Việt Nam ăn mừng ngày lễ đầu năm Mậu Thân. Thật là hay! Điều này cho phép tôi được vắng mặt nghỉ ngơi một chút ngoài Việt Nam và chuyển sự chú ư qua một vùng khác thuộc lănh thổ tôi được phân nhiệm theo dơi. Nói cho cùng, các ông xếp cắt cử tôi làm "phóng viên của vùng Viễn Đông," có nghĩa là trên lư thuyết tôi phụ trách tường thuật hầu hết vùng Châu Á, mặc dù những sự thay đổi thường xuyên về t́nh h́nh Việt Nam đă khiến tôi phải bỏ bê những nước láng giềng của Việt Nam. Nay tôi đă có cơ hội để sửa chữa sự khiếm khuyết này.

Tôi quyết định đi Lào.

            Tôi trông đợi kỳ đi này v́ hy vọng sẽ chỉ là một chuyến đi thăm một địa bàn ít sôi động hơn. Không phải là cái đất "Vạn Tượng" không có cuộc chiến khó chịu của nó để mà làm ngơ không ngó ngàng đến. Tuy nhiên Lào là một chốn êm dịu, dễ chịu mặc dù hơi ngô nghê một chút, dân chúng th́ ôn ḥa không nóng nảy bằng, và theo tôi kém phức tạp hơn người Việt Nam. Họ có một vị vua hiền hậu tên là Sri Savang Vatthana và tôi được kể lại là ông thuộc ḷng tất cả các tiểu thuyết của Marcel Proust. Vài năm sau, bọn Cộng sản đă nhốt ông vua hiền này cùng với hoàng hậu, hoàng thái tử và các hoàng đệ khác vào trong địa ngục "Trại Cải Tạo số 1," nơi mà người ta cho là ông đă chết trong năm sau.

            Xứ Lào cũng được trời phú cho có rất nhiều sư trẻ vị thành niên chắc chắn không phải thuộc thành phần cực đoan. Sau khi mặt trời lặn, họ thường lẻn vào đất chùa để hút thuốc lá và nhéo mông chọc ghẹo các bà khách người Âu. Tôi tin rằng điều này đă khiến nhiều bà cứ thích đi lang thang vào đất thánh lúc chiều tối mát mẻ.

            Tôi có lần hỏi vị sư chủ tŕ của một ngôi chùa lớn ở Viên Chăn tại sao ông và hầu hết các sư chủ tŕ các ngôi chùa Lào khác phải mời các sư thầy từ Thái Lan qua. "Bởi v́, anh bạn trẻ à," ông trả lời, "đất nước Lào dường như là không đào tạo được các vị tăng uyên bác nghiêm trang."

            Đi đến xứ Lào đă là nửa của niềm vui rồi. Không phải đáp máy bay đến Viên Chăn đă tránh được cho tôi cái bực dọc đương nhiên phải có tại các phi trường trong thời chiến v́ mỗi lần  bay đến Tân Sơn Nhất tại Sài G̣n luôn luôn là một cực h́nh. Thay vào đó, tôi đáp một chuyến tàu hỏa có toa pḥng ngủ nhàn nhă từ Bangkok đến Nong Khai tại miền Đông Bắc Thái Lan. Vào thời kỳ đó chưa có cầu nối Nong Khai với Viên Chăn, thủ đô hành chánh của Lào trên bờ bên kia của sông Cửu Long. Do đó tôi phải qua biên giới thông qua một thủ tục thô bỉ một cách tức cười.

            Sau khi đến ga Nong Khai vào buổi sáng sớm, tôi thuê hai chiếc xe lôi đạp, một cái cho bản thân tôi và cái kia cho hành lư. Chúng tôi lướt qua một đám tu sĩ hành khất khoác cà sa màu vàng nghệ đến một ṭa nhà tương tự như một nhà ga hàng không của các nước phương Tây. Có đầy đủ phu khuân vác, khu vực nhập cư và quan thuế với đội ngũ công chức mặc đồng phục rất nghiêm trang, lạnh lùng, lại có cả quầy bán vé đủ sức phục vụ cho hành khách máy bay Boeing 707. Tôi mua một tấm vé trông giống như vé hàng không, soát lại các va-li và sang khu vực chờ đợi.

            Cuối cùng th́ chuyến phà khởi hành được loan báo. Tôi đi đến cổng và nh́n thấy ǵ bên ngoài? Những bậc thang gỗ ọp ẹp, lung lay và trơn ướt dẫn xuống một bến cảng bùn lầy để lên một cái phà "quốc tế" mà người Thái và Lào đă xây lên những trạm tiếp đón đồ sộ hai bờ Nam Bắc của ḍng Cửu Long. Chiếc tầu trông giống như đă được thiết kế bởi nhà biếm họa người Anh William Heath Robinson và chạy bằng một cỗ máy động cơ diesel bỏ đi của cái xe buưt Luân Đôn thời tiền chiến. Chiếc phà có vẻ bị ṛ rỉ một cách đáng ngại nhưng Eban, khách đồng hành đă từng tốt nghiệp Ivy-League trấn an tôi là chuyến vượt sông chỉ mất 15 phút, quá ngắn đề tầu có thể ch́m.

            "Tôi biết, tôi biết, Eban," tôi nói, "Trước đây tôi đă từng ngồi trên những quan tài nổi này rồi và tôi biết bơi. Tuy nhiên, tôi không muốn bị rắn nước độc cắn tôi."

            "Hay bị những con 'Cá Đầu Buồi’ đầy rẫy trong nước bùn ở đây ăn thịt," anh tiếp lời. Cả hai chúng tôi cùng cười như những thằng khùng. Đêm hôm trước chúng tôi đă quá chén.

            Tôi gặp Eban trong toa ăn của chuyến xe lửa, nơi có bán rượu huưt-ky Thái, đúng hơn là rượu Mekong chỉ có 3 đô la một chai 0.70 lít. Eban đă từng là cố vấn về nông nghiệp cho nông dân Lào trước khi được thăng chức lên vị trí nhân viên cao cấp USAID đóng tại Phi Luật Tân. Nay anh ta lên tàu đi thanh tra nơi làm việc cũ của ḿnh.

            "Lúc tôi đóng tại Lào, công việc tôi là là huấn luyện nông dân một vùng nào đó cách trồng hai vụ lúa trong một năm," anh kể lại với một nụ cười tinh quái. "Điều này rốt cục là một công tác rất bực bội nhưng lại tức cười."

            "Tại sao lại bực bội?" Tôi hỏi.

            "Th́ thế này, khi tôi đến trở lại chỗ cũ năm ngoái, tôi thấy đám nông dân đang vui chơi hoặc ngủ trưa dưới bóng cây mát, trong khi đồng áng th́ bỏ hoang."

            "Có vẻ là kiến thức về trồng trọt của bạn không gây được ấn tượng đối với họ  lắm," tôi chọc anh.

            "Hê, tôi gây ấn tượng lắm chứ," Eban đáp lại. "Tôi lay cho ông trưởng làng thức dậy và hỏi ông: 'Năm ngoái tôi đă chẳng dạy ông làm hai vụ mùa sao?' Ông trưởng làng cười và nói 'Th́ đúng vậy và chúng tôi rất biết ơn ông. Chúng tôi đă làm hai vụ mùa năm ngoái rồi. Vậy năm nay chúng tôi khỏi cần làm nữa.' Nói xong ông ta lại quay ra ngủ tiếp."

            Eban và tôi chia tay nhau tại Viên Chăn. V́ là một công chức cao cấp, anh được ở tại Lan Xang, một khách sạn sạch sẽ theo kiểu Tây phương bên bờ sông Cửu Long, nơi mà các viên chức Hoa Kỳ và chuyên gia báo chí thích trú ngụ v́ nơi đó được trang bị máy điều ḥa không khí, một nhà bếp quốc tế và có cả hồ bơi.

            Trong khi đó, tôi chọn cái khung cảnh kỳ bí của của khách sạn Constellation trên con đường Samsenthai trong trung tâm bụi bặm của thành phố, nơi đặc trưng trong cuốn phim gián điệp nghẹt thở "Tên học tṛ đáng kính" (The honourable schoolboy) của John Le Carré. Căn pḥng giá 25 đô la một đêm của tôi không có máy điều ḥa không khí, chỉ có một cái quạt trần, một cái mùng trên giường, một ṿi tắm nước lạnh, một cái bàn tiểu, cầu tiêu và một cửa sổ không trông ra sông Cửu Long mà hướng vào một cái ao vịt. Khách sạn Constellation giống như các quán trọ đơn giản nơi đồng quê của Pháp, mà hầu hết, buồn thay đă trở thành nạn nhân của nền văn minh. Nhà bếp của khách sạn Constellation tương tự như ngoại cảnh của nó: các loại đồ ăn chắc bụng kiểu Pháp kèm với rượu Beaujolais ướp lạnh trong hộp thiếc nhưng luôn luôn được dọn ra với chỉ thị của ông chủ là người hầu phải có một cái khăn trắng tinh quàng quanh cổ tay phải.

            "Chào mừng ông đă trở lại! Món ưa thích của ông có trong thực đơn ngày hôm nay," Maurice Cavaliere, ông chủ Constellation nói khi xe tắc -xi thả tôi xuống vào giờ ăn trưa, "Chim bồ câu nấu đậu Ḥa Lan! Tôi mua được chim bồ câu non hôm nay ngoài chợ, tươi và ngon lắm!"

            Maurice hút thuốc lá liền tay và là một trong những nhân vật tôi thích nhất trong cả vùng Đông Dương. Sinh ra tại Côn Minh, anh là con một nhà thực vật học Pháp và một phụ nữ quư tộc người Hoa. Anh tốt nghiệp Đại học nổi tiếng "Cao Đẳng Thương Măi" (École Superieure de Commerce) tại Paris và c̣n khá hơn là một chủ khách sạn giỏi: anh cũng là một nguồn tin tức đáng tin cậy. Điều này có lư do của nó. Khách sạn Constellation là chỗ dừng chân của một đám người tạp nhạp nhất. Nơi đó có các gián điệp từ các nơi trên thế giới đến, kể cả một phụ nữ Trung Hoa quyến rũ trạc 40 tuổi mà khách quen thuộc của Maurice biết là bà ta làm việc cho chế độ Mao Trạch Đông trong cao điểm của cuộc Cách Mạng Văn Hóa Vô Sản Vĩ Đại. Các đồng nghiệp Pháp của bà báo cho tôi biết công việc của bà là mồi chài gián điệp, phi công Hoa Kỳ để thu lượm tin t́nh báo trong lúc làm t́nh với họ tại khách sạn Constellation, có thể ngay trong pḥng ngủ bên cạnh pḥng tôi.

            Có cả cựu chiến binh Đức trong Đoàn Lê Dương Pháp cũ với những công tác mờ ám. Có dân buôn lậu, cớm và nhiều phi công trong những nhiệm vụ hiểm nghèo. Trong hơn 24 hăng hàng không bay đi từ Lào chỉ có duy nhất hăng Royal Air Lao là thật sự chính thức. Hăng Air America được sở hữu và điều hành bởi CIA bay những phi vụ liều mạng nhất, kể cả dội bom đường ṃn Hồ Chí Minh. Tôi có lần điên rồ để một chiếc trực thăng Air America thả xuống một căn cứ trên đỉnh núi của một bộ lạc liên minh với người Mỹ dưới hỏa lực nặng nề của đối phương. Thật ngạc nhiên là chiếc trực thăng đă trở lại sáng hôm sau, cũng bị hỏa lực địch vây hăm nhưng mang tôi về lại Viên Chăn an toàn. Họ là những người quả cảm nhất mà tôi từng gặp - Và tôi đă diện kiến tất cả bọn họ tại quán ba của Maurice.

            Ngoài ra có hơn 20 hăng hàng không thuê bao khác làm con thoi giữa Tam Giác Vàng trong vùng tam biên Thái-Lào-Miến Điện và Viên Chăn, Sài G̣n cùng các điểm xa hơn nữa. Có lần tôi làm phóng sự vụ đụng độ lạ lùng giữa một trong những chiếc máy bay thuê bao đó và Không Quân Hoàng Gia Anh Quốc (Royal Air Force) trên một đảo ngoài Hồng Kông. RAF đă áp tải một chiếc máy bay lạ đáp xuống vùng mà hồi đó là thuộc địa của Vương quốc Anh. Chiếc máy bay đăng bộ kinh doanh tại Lào. Trong khoang tàu bay nhân viên không quân Anh t́m thấy một khối lượng vàng thật lớn dự định được thả xuống điểm hẹn ngoài khơi Hồng Kông và sẽ được thu hồi bởi một chiếc tầu buồm. Buôn lậu vàng là một hoạt động thương măi rất lớn ở Lào dạo đó và khi các thành viên tham gia cũng như các phi công uống rượu say rồi th́ họ khai ra những câu chuyện hấp dẫn tại quán ba trong khách sạn Constellation của Maurice Cavaliere.

            Maurice mang lại cho tôi một ly Pastis, một loại rượu thơm mùi hồi và khi ḥa với nước biến thành màu đục. Pastis là một loại rượu khai vị rất thích hợp với vùng nhiệt đới.

            "Tôi rất vui được thấy anh lại ở đây với chúng tôi lần nữa. Nhưng sao vậy? Đáng lẽ anh phải ở Sài G̣n chứ?" anh hỏi.

            "Thỉnh thoảng tôi cũng phải viết cái ǵ đó về những vùng khác trong địa bàn của tôi chứ, Maurice, và lần này cũng tốt như mọi lần thôi," tôi nói. "Bọn Mỹ nói với tôi là chắc không có ǵ lộn xộn trong lần ngưng bắn này bắt đầu từ ngày mai."

            "Vâng, nhưng tôi không chắc. Anh có tin nguồn tin của họ hay không? Bọn họ c̣n biết họ đang nói về cái ǵ hay không? Chúng tôi có tin t́nh báo khác tại đây và có vẻ khá rắc rối đấy," Maurice nói. "Tuy nhiên anh đối chiếu lại với Mee đi. Cô ấy thật sự biết rất nhiều. Tôi đă tự tiện bảo với cô ta là anh đă đến đây rồi. Chiều nay ăn tối với cô ta nhé. Được chứ?”

            "Được quá đi chứ, cảm ơn nhiều lắm!!"

            "Món bồ câu quay cho hai người vậy," Maurice cười khúc khích và quay sang tiếp những người khách khác trong quán ba.

            Như thế, tôi sẽ tái ngộ với Mee, tốt lắm. Mee không phải là tên thật của cô. Tôi chỉ chọn trong một danh sách tên của bộ lạc Akha để đặt danh hiệu cho mỹ nhân hung tợn này mà tôi có cơ hội làm quen một vài năm trước đó.

            Khởi đầu của t́nh bạn lạ lùng giữa chúng tôi có lẽ cần phải được kể lại từ một buổi chiều thứ năm trong mùa mưa nhiệt đới và những ngày điên cuồng sau đó. Tôi đang ngồi trong pḥng đợi khách sạn Constellation sắp xếp lại giấy tờ. Để tránh mưa hắt vào, Maurice đă đóng các cánh cửa sổ trông ra phía đường Samsenthai. Bỗng nhiên, xoảng... đùng... đoàng... một khối lạ phóng qua cửa ra vào làm vỡ tan cửa kính và khung cửa gỗ. Té ra là cả một chiếc Harley Davidson bay vào pḥng, trên yên là một phụ nữ mặc toàn đồ da trông giống như một khúc dồi huyết tṛn trịa boudin noir. 

Cô ta đạp thắng ngay trước quầy rượu hét lên, "Maurice, đưa tôi ly Pastis! Nào!" Hoàn toàn dửng dưng với điếu thuốc Gitane vẫn lủng lẳng trên môi dưới, Maurice đưa cho cô ly rượu mạnh khai vị. Trong lúc cô đang uống tôi nhận thấy một h́nh xâm kỳ lạ trên phần đỉnh tay trái của cô. Sau đó th́ cô đạp số de, một tính năng duy nhất chỉ có ở xe mô-tô Harley Davidson, lui xe ra khỏi quầy rượu, cán các mảnh kính vỡ dưới bánh xe và chiếc xe gầm lên phóng vào cơn mưa nhiệt đới.

            "Trời đất ơi Maurice, chuyện ǵ xảy ra vậy?" Tôi hỏi.

            "Mee đó mà," anh nhún vai trả lời, "Cô ta đến đây mỗi chiều Thứ Năm để uống Pastis khi ở trong vùng. Tôi quên mất hôm nay là Thứ Năm."

            "Thế c̣n?"

            "C̣n cái ǵ?"

            "Cái cửa vỡ th́ sao?" Tôi muốn biết.

            "Ồ cái vụ đó! Cô ta sẽ cho người đến sửa chữa và dọn dẹp ngay sáng mai mà. Chắc tôi hạ cánh cửa sắt xuống bây giờ và đóng cửa tiệm thôi. Trời mưa như thế này sẽ không c̣n khách đâu. Đi vào pḥng bên trong ăn cơm tối với tôi đi."

            "Mee là ai vậy?" Tôi hỏi Maurice lúc chúng tôi đang dùng bữa cơm tối.

            "Một phụ nữ lạ lùng, thật là giàu, giàu lắm mà mới chỉ hơn ba mươi tuổi. Cô ta trước kia làm nghề giao thuốc phiện, nay đă thôi rồi! Năm ngoái cô có một chiếc xe vận tải lớn và thường xuyên tự chở thuốc phiện từ Tam Giác Vàng (vùng trồng cây thuốc phiện trong khu vực ba biên giới Thái-Lào-Miến Điện) vượt qua Lào và đường ṃn Hồ Chí Minh đến Nam Việt Nam và ngược lại."

            "Cô ta không bao giờ bị bắt sao?" Tôi truy hỏi.

            "Chắc là có bị rồi nhưng biết cách hối lộ các quan chức. Cô mời họ lên trên xe tải và thuyết phục họ cái mùi vị đó không là là thuốc phiện," Maurice nói với vẻ mặt lạnh như tiền.

            "Nhưng thuốc phiện bốc mùi hôi lắm, làm sao mà họ không nhận ra?"

            "Anh bạn tôi ơi, anh không thấy cô ta rất đẹp à?"

            "Thấy chứ, Maurice, vậy tôi sẽ có mặt tại đây Thứ Năm tuần sau nhe."

            "Tôi sẽ để cửa mở, dù mưa hay nắng."

            "Một điều nữa, Maurice," tôi tiếp. "Cái h́nh xâm lạ lùng bên tay trái của cô ta là h́nh ǵ vậy?"

            "À, đó là cái dấu của bộ lạc Akha. Cô ta là thuộc bộ lạc hung dữ đó, một dân tộc miền núi sống trong khu Tam Giác Vàng, mặc dù mẹ cô là người Mèo, c̣n gọi là H'mông nữa. Hầu hết người Akha mù chữ, Mee cũng vậy."

            "Nhưng Maurice, tôi thấy cô ta nói tiếng Pháp với anh mà!"

            "Đúng vậy, cô ta nói được tiếng Pháp và một tá ngôn ngữ khác, kể cả tiếng Đức. Cô thích người Đức lắm và đă từng nằm trong ṿng tay một vài anh lính Lê Dương thời trước. Tuy nhiên cô không biết đọc hay viết ngôn ngữ nào cả, đó không phải là cách giáo dục của người Akha. Dù vậy cô ấy rất thông minh. Như anh thấy đó, cô ta khá cao lớn đối với một phụ nữ bộ lạc miền núi."

            "Giống như vua Charlemagne. Ông ta biết nhiều thứ tiếng nhưng thất học, có chí lớn, thông minh và rất cao lớn" tôi châm thêm.

            Maurice phá lên cười: "Chúc mừng! Charlemagne! Anh mới đặt một biệt danh chính xác cho cái cô kiêu ngạo này!" Vừa nói, Maurice vừa mở thêm một chai Beaujolais. Ông chủ khách sạn người Pháp-Hoa tại Lào và vị khách người Đức kết thúc buổi tối bằng cách nâng cao ly rượu để vinh danh vị hoàng đế Pháp của thế kỷ thứ 9.

            Thứ Năm tuần sau đó, cửa để mở. Tôi ngồi tại quầy vào giờ uống rượu. Mee lái xe Harley vào thẳng pḥng đậu bên cạnh tôi, để máy nổ và gọi rượu: "Maurice, đưa tôi ly Pastis! Nào!" Nhận thấy tôi, cô hỏi bằng tiếng Pháp:

            "Anh là ai vậy?"

            "Một kư giả Đức." Tôi trả lời cũng bằng tiếng Pháp.

            “Warum sitzen Sie dann hier herum statt sich auf dem Lande umzusehen, wo viel passiert?” Cô nói với tôi bằng tiếng Đức, có nghĩa là: Tại sao anh lại ngồi đây thay v́ đi rảo quanh vùng thôn quê, nơi có nhiều chuyện xảy ra hơn?

            "Để gặp cô, Mee. Tôi thấy cô làm sập cả cửa tuần trước."

            "À ra thế," nàng đáp. "Khá hung bạo, phải không. Sáng mai bẩy giờ sẵn sàng tại đây. Tôi đẽ đón đi chơi một ṿng."

            Nói xong, Mee de xe và rời khỏi quán.

            Đúng giờ như người Phổ, Mee có mặt tại quán Constellation vào lúc bẩy giờ sáng và bảo tôi ngồi lên đằng sau. Lúc chúng tôi rồ xe về hướng Đông Bắc, tôi bám chặt vào thắt lưng áo da của cô, thưởng thức mùi tóc đuôi ngựa đập vào mặt tôi. Rơ ràng là nàng đă gội mái tóc dầy sáng hôm đó bằng một loại dầu gội đầu rất mắc tiền của Pháp.

Chuyện ǵ xảy ra trong chuyến đi hoang dă hai ngày sau đó là câu chuyện khác cho một lần sau, ngoại trừ tôi có thể nói là chúng tôi đă đi thăm các khu vực miền Đông nước Lào kiểm soát bởi ba đạo quân ḱnh lẫn nhau: phe hoàng gia, phe trung lập và Cộng sản Pathet Lào. Cả ba nhóm đều hoan nghênh Mee, người mà họ biết tường tận, và cũng chấp nhận tôi bởi v́ nàng giới thiệu tôi không phải là một phóng viên mà là người t́nh của nàng từ Âu Châu qua. Sự thực tôi không phải và cũng không bao giờ là như vậy. Tuy nhiên đó là một điều nói dối có lư. Đến chốt của Pathet Lào, chúng tôi được cảnh cáo không nên đi sâu thêm v́ sợ có thể rơi vào tay Bắc Việt. "Bọn Bắc Việt chẳng tử tế đâu," Tay sĩ quan Pathet Lào nói với Mee, vừa liếc mắt đưa t́nh vào những đường cong bên trong bộ đồ da của nàng.

            "Trời tối rồi, Mee ơi," tôi nói trên đường về.

            "Anh nói đúng. Về lại Viên Chăn tối nay khá nguy hiểm," nàng đáp lại.

            "Vậy th́ chúng ta ngủ ở đâu bây giờ?"

            "Ngoài mái hiên căn nhà trên cột kia ḱa."

            "Cô có quen chủ nhà không?" Tôi hỏi.

            "Không. Chúng ta cứ việc đến đó và mở túi ngủ ra. Các mái hiên để dùng vào chuyện đó. Ḷng hiếu khách đối với khách lạ là một truyền thống ở Lào."

            Do đó chúng tôi dừng lại tại trang trại. Mee yêu cầu tôi giúp mang cái túi vải thô, hai cái túi ngủ, chăn mỏng và mùng. Một cụ bà ra đón và mang cho chúng tôi hai bát cơm gà và một b́nh nước trà, cũng dùng để súc miệng sau khi ăn xong.

Mee có mang theo hai hộp thiếc Beaujolais để uống kèm theo bữa ăn. Trước khi cởi bộ đồ da để chui vào tấm chăn, nàng lục túi vải thô lần nữa lấy ra hai khẩu súng lục Colt 0.45 và đưa cho tôi một cái. "Có một cái này bên cạnh lúc ngủ luôn luôn là một điều tốt, trong trường hợp ḿnh phải đón khách bất chợt đêm nay," nàng nói, ném về phía tôi một cái hôn gió và thiếp đi luôn.

            Chúng tôi đến khu trại có tường bao quanh của Mee trong trung tâm Viên Chăn khoảng giữa trưa hôm sau. Trong sân tôi thấy một chiếc Jaguar loại E và một chiếc Mercedes 280 màu đen mới tinh. Mee dắt tôi đến một căn pḥng tắm thật sang trọng để đi tắm, một người hầu mang lại cho tôi một cái áo sơ-mi và quần lót mới.

            Khi tôi trở ra, nàng đă thay vào một cái áo và quần jeans giản dị. "Anh ở lại dùng cơm trưa nhe," nàng vừa nói vừa đưa tôi đến một pḥng ăn rộng nhưng trang trí đơn sơ và điều đặc biệt đáng nhớ nhất là cái sàn lót gạch mầu đen. Trong bữa ăn trưa ngon kiểu Pháp được dọn bởi một người quản gia mặc đồng phục, nàng hỏi tôi thẳng thừng:

            "Anh nghĩ sao về một đứa bé mang các ḍng máu Akha-Mèo-Đức?"

            "Chắc là xinh xắn lắm," tôi đáp lại.

            "Chúng ta có thể có một đứa, em mới 35 tuổi và rất muốn có con. Anh có muốn cưới em không?"

            "Nhưng Mee, anh đă có vợ, hạnh phúc và anh thương vợ anh rất nhiều."

            "Cái điều ấy có thể được giải quyết bằng một hay hai cái thứ kia," nàng lạnh lùng nói, tay chỉ vào những miếng gạch lót sàn nhà.

            "Trời đất, bộ xúi anh giết vợ bằng gạch lót nhà hả?"

            "Không, không, không bao giờ! Mua đứt cô ấy! Những miếng gạch lót sàn này bằng vàng ṛng đấy. Em từng buôn vàng mà, anh biết đấy. Đây là kho tiết kiệm của em," nàng trả lời, chỉ tay ṿng tṛn ra dấu là cả cái sàn nhà được bao phủ bởi loại quư kim đó.

            Tôi tự nhủ tại Á Châu nói "không" ngay lập tức là một điều xấu mà c̣n có thể nguy hiểm nữa, nhất là đối với một con người bản chất hung dữ như Mee. V́ vậy tôi t́m cách lảng tránh: "Anh phải thảo luận chuyện này với Gillian đă."

            'Ừ anh làm vậy đi, anh bạn thân mến của em," nàng mỉm cười trả lời tôi. "Tài xế em sẽ đưa anh về khách sạn Constellation bây giờ nhe."

            Khi tôi kể lại với Gillian biến cố này, vợ tôi tuyên bố một câu mà tôi hy vọng là câu nói đùa: "Đáng lẽ anh phải nhận lời mới phải. Thử nghĩ xem, hai cục vàng khối! Tụi ḿnh có thể ly dị nhưng vẫn làm t́nh nhân th́ đă sao."

            Rốt cuộc th́ chúng tôi vẫn ở với nhau và tôi th́ có thêm một người bạn tốt ở Lào. Chúng tôi gặp nhau mỗi lần tôi ghé Viên Chăn, nhưng cái vụ một đứa bé mang ba gịng máu Akha, Mèo và Đức không bao giờ được nhắc lại nữa. Tôi nghĩ đến giai đoạn kỳ thú đó trong cuộc đời với một nụ cười thú vị lúc đang sửa soạn cho một bữa tiệc có món bồ câu với Mee trong ngày 27 tháng Giêng 1968, cái ngày mà lệnh ngưng bắn tại Sài G̣n bắt đầu có hiệu lực. Bây giờ hồi tưởng lại, đó chính là cái ngày mà sự nghiệp phóng viên tôi đă được cứu văn.

            Mee đến khách sạn Constellation trong chiếc Jaguar loại E, lộng lẫy trong chiếc váy trắng có chấm polka màu xanh mà nàng mới mua trong một chuyến "làm ăn" tại Bangkok, điều mà nàng kể với tôi lúc đang thưởng thức ly Pastis.

            "Em không ngờ anh ở đây trong lúc này trong năm," nàng nói, "Anh là phóng viên, anh đáng lẽ phải ở Sài G̣n ăn Tết chứ?"

            Tôi kể với nàng những ǵ tin t́nh báo Mỹ đă nói với tôi. Nàng thở dài, "Thật là đáng sợ khi biết bọn Mỹ sẽ bị bối rối như thế nào. Điều này cũng đáng lo cho những ai trong chúng ta không muốn sống dưới chế độ Cộng sản. Tin t́nh báo của em cho biết sắp có chuyện kinh hoàng xảy ra tại Việt Nam vào dịp Tết. Em có ư kiến này: anh kiểm tra với người Pháp ở Paksong đi. Đi ngay ngày mai đi. Em sẽ báo trước để giới thiệu anh với tay sĩ quan chỉ huy."

            Paksong là thủ đô cà phê của Lào trên cao nguyên Bolaven của "cán chảo" Lào. Nhờ khí hậu mát mẻ, phái bộ quân sự Pháp cố vấn cho Quân đội Hoàng Gia Lào đă thành lập một khu nghỉ phép và phục hồi sức khỏe cho các sĩ quan của họ. Sau này tôi khám phá ra đây cũng là một trạm nghe ngóng quan trọng của Pháp v́ nó nằm cạnh đường ṃn Hồ Chí Minh mà các nhánh phía Tây xa nhất chỉ cách trung tâm nghỉ mát của người Pháp khoảng 40 dặm.

            Sau bữa cơm chiều, Mee gọi Paksong và nói tôi, "Ông Thiếu tá chờ anh ngày mai để ăn trưa với ông ấy. Sáng sớm mai em sẽ lái đưa anh đến phi trường Viên Chăn. Anh bay đến Paksé, thuê một chiếc xe tại phi trường và lái khoảng 50 cây số về hướng Đông. Đường đi dễ thôi."

            Buổi sáng tại phi trường Viên Chăn, nàng ôm tôi từ giă nói, "Em nghĩ anh phải có mặt tại Sài G̣n ngay bây giờ. Đến Paksong gọi em ngay khi biết thêm tin tức ǵ."

            Tôi không nhớ tên ông Thiếu tá Pháp. Ông tŕnh bày cho tôi rất chi tiết về đường ṃn Hồ Chí Minh và cho tôi một căn pḥng nằm trên cổng của Trung tâm. Giữa đêm tôi tỉnh dậy nghe thấy có người nói chuyện bằng tiếng Việt dưới cửa sổ pḥng tôi. Một giọng nói là của chị quản gia của Trung tâm và giọng kia là của một người đàn ông nghe ghê tai và hết sức khó chịu.

            Tôi nghe thấy hắn nói "Mỹ...Mỹ" nhiều lần và chị quản gia th́ trả lời "báo chí Đức." Cả hai căi vă một hồi, rơ ràng là nói về tôi và tôi lại ngủ thiếp đi.

            Hôm sau lúc ăn sáng, viên Thiếu tá nói với tôi: "Đêm qua chúng ta có khách."

            "Tôi biết, tôi có nghe hắn. Có vẻ như hắn là một tên Bắc Việt nói chuyện với chị quản gia về tôi," tôi đáp.

            "Đúng vậy, nói về anh và một số vấn đề khác tôi không tiện kể ra. Dĩ nhiên là tôi hoan nghênh anh muốn ở lại đây bao lâu cũng được nhưng nếu tôi là kư giả th́ tôi phải bay về Sài G̣n ngay lập tức. Sắp có chuyện lớn rồi."

            Vào thời kỳ đó tôi đă ở chung quanh giới quân sự và t́nh báo Pháp đủ lâu để hiểu ngay lời khuyên của viên Thiếu tá mà không cần phải thắc mắc ǵ thêm nữa. Bọn họ am tường về cái xứ Đông Dương thuộc Pháp cũ này c̣n hơn ai hết.

            Tôi gọi Mee để báo là tôi sẽ trở về Viên Chăn chiều hôm đó. "Em có quen ai tại ṭa Đại sứ Việt Nam không?"

            "Quen tất cả mọi người. Anh cần ǵ?"

            "Anh cần phải gia hạn chiếu khán nhập cảnh mà anh sợ ngày mai ṭa đại sứ đóng cửa nghỉ Tết," tôi nói.

            "Đúng vậy. Họ sẽ đóng cửa nhưng không có vấn đề nào mà một tờ $100 trong một phong b́ ĺ-x́ không giải quyết được. Em sẽ giúp anh. Anh chỉ cần đóng góp một tờ $100 mới thôi."

            Nàng đón tôi tại phi trường Viên Chăn, lái xe đưa tôi đến khách sạn Constellation, bảo tài xế sáng hôm sau đánh xe đến tư gia viên phó Đại sứ để đưa ông ta đến văn pḥng mà chúng tôi đă đợi sẵn trong chiếc xe Jaguar E-type với giấy thông hành của tôi và một phong b́ có sẵn tờ $100 trong đó."

            Viên phó Đại sứ thị thực chiếu khán nhập cảnh cho tôi. Tôi chúc anh ta "Chúc Mừng Năm Mới."

            "Nhanh lên," Mee nói, "chuyến máy bay Royal Air Lao đến Bangkok của anh sẽ rời phi trường khoảng hơn một tiếng đồng hồ nữa. Em đă mua sẵn vé Air Vietnam chuyến chót từ Bangkok đến Sài G̣n rồi. Vé đây này."

            Đến phi trường tôi gởi trả nàng lại tiền vé máy bay và ôm nàng vào ḷng.

            "Có lẽ em không nên làm điều này. Anh đang bay vào vùng địa ngục. Em không muốn anh bị mất mạng," nàng nói với tôi trong một cơn xúc động bất thường.

            Tôi hôn nàng và lên máy bay. Đến Bangkok tôi chạm trán một đồng nghiệp cùng toán là Friedhelm Kemna, đặc phái viên cho Die Welt nhưng không làm cho những tờ khác của nhóm Axel Springer, mặc dù chúng tôi thỉnh thoảng thay thế nhau khi một người trong chúng tôi đang làm công tác khác.

            "Mày làm cái ǵ ở đây? Mày đáng nhẽ phải ở Lào mà?," anh ta hỏi.

            "Tụi bạn Pháp và Lào báo cho tao là sắp có chuyện lớn xảy ra ờ Việt Nam. C̣n mày th́ sao? Tao tưởng mày phải thủ trại ở Hồng Kông chứ?"

            Kemna là một gă độc thân khoảng 40 tuổi đă từng phục vụ với cấp bậc Thiếu úy Kỵ binh Đức trong Thế Chiến Thứ Hai. Hắn cuời bẽn lẽn thú thật với tôi, "Thỉnh thoảng tao nhớ đàn bà Âu quá.  Pan American có mấy cô tiếp viên người Đức tuyệt đẹp và họ thường ở khách sạn Siam Intercontinental. Do đó tao đi chơi Bangkok một chuyến."

            "Và mày cũng đă được báo là sẽ có khủng hoảng lớn ở Sài G̣n?"

            "Đúng vậy, ṭa Đại sứ Đức cho tao biết," anh trả lời. "V́ vậy tao đă lấy vé máy bay đi Tân Sơn Nhất vào chuyến chót hôm nay."

            Khi chúng tôi đến, hàng trăm ngàn người Việt đang ở ngoài đuờng phố. Chúng tôi được kể là khoảng nửa triệu người đă đổ ra đường để chào mừng buổi tối đầu tiên không có giới nghiêm. Tiếng pháo nổ đ́ đùng khi tắc-xi đưa chúng tôi về khách sạn Continental.

            Tôi quá mệt để đi ra ngoài ăn tối. Trong tiếng ồn của pháo nổ bên tai, tôi ngủ thiếp đi. Khi tôi thức dậy vài tiếng đồng hồ sau đó lúc nửa đêm, thật rơ ràng là là các nguồn tin Mỹ đă tiên đoán trật lất c̣n Maurice, Mee và tay Thiếu tá Pháp ở Paksong hoàn toàn đúng: không yên ổn chút nào trong dịp Tết 1968 tại Sài G̣n. Nhờ Maurice, Mee và tay Thiếu tá Pháp tôi đă không phạm cái sai lầm lớn nhất là hụt mất cái biến cố Tổng Công Kích Mậu Thân đang bắt đầu lúc tôi c̣n nằm trên giường đêm hôm đó - tại Sài G̣n.