Đà Nẵng là một thành phố khốn cùng vào đầu tháng 2 năm 1968. Lạnh lẽo và mưa phùn chẳng khác nào như tôi vừa bay đến một vùng Bắc Âu. Các đường phố vắng tanh, ngoại trừ xe quân đội. Tôi đă ôm ấp hy vọng được qua đêm trên chiếc Helgoland tại Đà Nẵng để biết t́nh trạng chiếc tầu này ra sao trong vụ Tổng công kích Mậu Thân và được ăn thức ăn Đức bổ dưỡng mà tôi đang thèm. Từ lúc rời khỏi Viên Chăn tôi chưa hề có được một bữa ăn ra hồn nào. Tuy nhiên, viên thuyền trưởng đă khôn ngoan mang chiếc tầu ra vùng an toàn của hải phận quốc tế rồi.

 

      V́ vậy tôi đến trại báo chí MACV, tuy thiếu hấp dẫn nhưng có một nhà ăn tạm được và một quầy rượu rất đầy đủ. Tôi gọi một ly Dry Martini, ăn một miếng steak kèm một chai rượu vang, đi tắm nước nóng và cảm thấy sẵn sàng cho một cuộc phiêu lưu mà sau này hóa ra không thể có những thứ xa xỉ này trong một thời gian nữa. Trời vẫn c̣n tối khi tôi gia nhập một đoàn xe TQLC Hoa Kỳ sáng sớm hôm sau. Tôi bận hai bộ đồ trận chồng lên nhau, chẳng bao lâu sau c̣n tṛng thêm một cái thứ ba nữa và tôi hài ḷng là chiếc áo giáp c̣n giúp tôi ấm thêm chút ít.

 

      Một số nhà báo từ trại báo chí đă can đảm dùng đường bộ đầy nguy hiểm đến vùng phụ cận của cố đô Huế vẫn c̣n nằm trong tay của Cộng quân.  V́ đây là cơ hội tốt nhất để chúng tôi có thể sớm đến nơi đó. Màn mây rất thấp và t́nh h́nh an ninh chung quanh phi trường Phú Bài bất ổn đến nỗi chúng tôi có thể sẽ phải chờ đợi nhiều ngày để có được một cái vé đi máy bay quân sự.

 

      Trước khi được phép leo lên xe vận tải, mỗi người trong chúng tôi được phát một khẩu M.16. "Chúng tôi biết là điều này trái với thông lệ," viên thượng sĩ giải thích, ư nói là Hiệp định Geneva quy định là phóng viên chiến trường không được mang súng. "Nhưng," ông ta nói thêm, "Chúng ta sẽ phải đi qua những vùng hết sức nguy hiểm và có thể bị phục kích. Trong trường hợp đó quư vị phải tự bảo vệ lấy. Vậy quư vị có hai sự lựa chọn: mang theo súng hay ở lại phía sau."

     

     Chúng tôi đến Phú Bài phía Nam Huế không hề hấn ǵ, ngoại trừ một cảnh tượng đă làm nổi dậy tính hài hước của tôi. Ngồi cạnh tôi đàng sau chiếc xe vận tải có một cặp phóng viên tạp chí Stern gồm một nhiếp ảnh gia và một kư giả. Người chụp h́nh là Hilmar Pabel, một trong những người nổi tiếng nhất trong nghề chụp ảnh của giới báo chí Đức, và là một cựu chiến binh lăo luyện phi thường . Bức h́nh chụp tôi trên b́a của cuốn sách này chính là tác phẩm của anh. Hilmar đă chụp nó trong một lúc tạm lắng giao tranh trong khu phố ở Huế.

 

Tay đồng nghiệp của anh là một chuyện khác. Hắn là một kư giả trẻ tuổi người Áo đặc trưng cho cái khuôn mẫu tả khuynh thổ tả đă từng nhiễm độc đời sống trí thức Tây Âu vào thời gian đó để đạt đến cực độ với cuộc nổi dậy của giới sinh viên trong đại nạn tháng 5 năm 1968 tại Paris, và nó đă lần lượt nhiễm độc toàn bộ lục địa và một phần lớn những ǵ c̣n lại của thế giới Tây phương.

 

      Tên hắn là Peter Neuhauser. Bỏ qua cái ư thức hệ Mác-xít th́ hắn lại là một gă vạm vỡ dễ mến không khác ǵ những người lính TQLC mà chúng tôi đang tháp tùng đi chung. V́ vậy họ rất thích hắn mà không hề biết ǵ về quan niệm thân cộng của hắn cả. "Anh trông giống như bọn tôi lắm," đám lính nói. "Chỉ cần cắt cái mái tóc thôi," họ tiếp. Do đó khi chúng tôi đến tiền trạm của Sư đoàn 5 TQLC Hoa Kỳ đàng sau phi trường Phú Bài, họ lôi Peter vào một cái lều, cạo cái đầu hắn, dí một cây M.16 vào tay hắn và reo lên khoái trí: "Chào mừng Trung sĩ mới của chúng ta!" Từ đó th́ họ gọi hắn là "Gunny," và Peter dưới mắt bao nhiêu người, gă Peter thân cộng này lại có vẻ thích thú với "cấp bậc" mới của ḿnh vô cùng, mà ta có thể thấy rơ qua các bức h́nh Hilmar Pabel đă chụp cho hắn. Điều này đă chẳng giúp được ǵ cho sự nghiệp của hắn. Những tấm h́nh chụp Neuhauser trong tư thế tác chiến cùng với những tấm khác cụ thể hơn trong bộ sưu tập phim của Pabel rốt cuộc đă đến văn pḥng chính của tạp chí Stern tại Hamburg vài ngày sau đó và đă gây phẫn nộ trong các đồng nghiệp của hắn. Không một ai thấy có ǵ buồn cười cả. Hắn không bao giờ được phái đi công tác ở ngoại quốc nữa.

     

 Sáng hôm sau, khi Peter và tôi tháp tùng một tiểu đoàn TQLC vật vă tác chiến từng tấc đất vào Huế, hắn có vẻ được giác ngộ, dù chỉ là trong khoảng khắc. Trên con lộ dẫn vào cố đô của Việt Nam chúng tôi thấy cơ man các xác chết của dân thường, riêng rẽ hay từng nhóm, toàn là phụ nữ, cụ già và trẻ em. Họ đều ăn mặc tươm tất nhân dịp đầu năm mới. Qua vị thế của các tử thi chúng tôi thấy có nhiều phụ nữ đă cố gắng dùng thân ḿnh để che chở cho con, chống lại bọn sát nhân.

 

      "Bọn Cộng sản bạn mày đă làm điều này, Peter!" Tôi mắng Peter một cách tàn nhẫn.

 

      Mặt hắn biến sắc trắng bệch. "Chắc chắn không phải đâu," Nó trả lời, "Những người này bị máy bay Mỹ giết."

 

      "Không đâu, Peter, thương vong v́ không tập chẳng như thế này," tôi vặn lại, "Trông những vết thương trên đầu và trên ḿnh mẩy họ ḱa.  Nh́n cách một số người phụ nữ đang giơ tay che mặt đi. Họ bị bắn ở cự ly rất gần. Tin tôi đi, tôi đă thấy chuyện này rồi: Đây là thành tích của những toán chuyên giết người. Những ǵ chúng ta đang thấy đây là bằng chứng tội ác chiến tranh. Những người này đă bị thanh toán v́ bất cứ lư do điên rồ nào đó mà bọn Cộng sản phải thủ tiêu cả đàn bà, trẻ em và người già.

 

      Peter Neuhauser giữ im lặng, nhưng tôi biết đă không thuyết phục được hắn. Chính hắn đă xác nhận với tôi khi chúng tôi gặp lại nhau vài tháng sau tại Hamburg. Neuhauser qua đời vài năm sau đó v́ nguyên nhân tự nhiên, nhưng vẫn trong tâm trạng tả khuynh không sao cứu văn được. Suốt vài chục năm sau, thỉnh thoảng tôi cảm thấy một nỗi buồn đau đớn là mặc dù đă chứng kiến hàng loạt người vô tội bị thảm sát trên con lộ đến Huế, vậy mà điều này vẫn không lay chuyển nổi tâm trí của một gă mà đáng lẽ ra là một con người dễ mến này. Những ngày bên cạnh hắn đă dạy tôi một trong những bài học đáng sợ trong sự kiện Tết Mậu Thân là: chẳng có ǵ, ngay cả những bằng chứng không thể chối căi nhất, có thể mong làm thay đổi tốt được những ư tưởng cố chấp về ư thức hệ.

 

      Phú Bài và Huế chỉ cách nhau khoảng 10 dặm nhưng chúng tôi mất gần một ngày trời để vào đến khu trại MAVC gần bờ Đông Nam của ḍng sông Hương có lẽ đă được đặt tên sai. Các cuộc đụng độ lẻ tẻ thiếu không trợ v́ thời tiết bay xấu và nhu cầu phải dọn dẹp các xác chết trên đường đă khiến chúng tôi bị chậm trễ. Doanh trại nằm trong khu vực mới của thành phố, xây dựng theo lối Âu Châu với những đại lộ rộng răi và những căn biệt thự kiểu Pháp đầy tiện nghi, một cơ sở Cercle Sportif, tức Câu lạc bộ Thể thao xinh xắn và một cư xá đại học với những ṭa nhà chung cư theo phong cách thập niên 1950 cho nhân viên giảng huấn được xây dựng theo kiểu mẫu xấu xí đặc thù trong thời kỳ đó của các dự án gia cư rẻ tiền đầy rẫy ở vùng ngoại ô phía bắc Paris.

 

      Vào thời điểm chúng tôi đến, quân đội Hoa Kỳ và VNCH đă tạm ổn định phần nào khu vực này của thành phố, ít nhất là vào ban ngày. Trong khi đó th́ Cổ thành với ṿng thành nội vi hoàng gia, c̣n gọi là "Purple City"  bắt chước theo kiểu mẫu Tử Cấm Thành Bắc Kinh vẫn c̣n nằm chặt chẽ trong tay Cộng quân.

 

      Doanh trại MAVC gồm một khách sạn khi xưa với khu vực ăn uống ở tầng trệt, pḥng ngủ của sĩ quan ở hai tầng trên và một ngôi nhà phụ với 20 căn pḥng. Bên cạnh ṭa nhà phụ là những cái gọi là "hootches" tức những lều tạm bợ, khu vực mở rộng cho lính tráng. Khu vực này chật cứng với tạp nham đủ loại người khác nhau: quân nhân, kư giả, t́nh báo viên, nhân viên cứu trợ, nhân viên Việt Nam làm việc cho Mỹ và các viên chức chính quyền cùng gia đ́nh t́m nơi trú ẩn tránh vùng giao tranh và tránh những toán ám sát của Cộng sản vẫn c̣n đang lùng sục để giết tại chỗ những người mà họ quy là phản động trong thành phố.

 

      "Xin lỗi quư vị, chúng tôi hết giường tạm rồi, không c̣n chăn nệm nữa. Quư vị phải tự t́m lấy chỗ nằm thoải mái trên nền xi-măng này vậy," viên Trung sĩ quân nhu đón tiếp chúng tôi tại khu vực trước kia là nhà ăn nói. "Có khẩu phần C ở góc đàng kia và rất nhiều túi giấy đựng xác để quư vị giữ ấm. Lấy bao nhiêu cũng được. Tối nay sẽ lạnh lắm đấy."

 

      Khu trại đóng cửa ban đêm. Nội bất xuất ngoại bất nhập. Chúng tôi nghe tiếng giao tranh mănh liệt phía Bắc ḍng sông nhưng thỉnh thoảng cũng có tiếng súng đụng độ ngay bên ngoài chu vi doanh trại. Tôi thu người vào khoảng trống chật hẹp giữa mấy gia đ́nh người Việt, trải ba cái túi đựng xác xuống đất dùng thay nệm, phủ lên ḿnh ba cái túi đựng xác khác đúng ra dùng để chuyển những binh sĩ tử trận, có những lỗ đánh dấu phía nào là đầu phía nào là chân. Tôi gối đầu lên cái ba lô. Những người bên cạnh tôi nói được tiếng Pháp. Họ th́ thầm với tôi là trong cái ngày trước Tết các toán sát thủ Cộng sản đă đến từng căn nhà với danh sách những người sẽ bị xét xử trước cái gọi là ṭa án nhân dân và sau đó th́ hạ sát họ tại chỗ, không cần xét xử.

 

      "Anh có nghĩ là những ông giáo sư người Đức có tên trong các danh sách đó không?" Tôi hỏi người đàn ông bên phải tôi.

 

      "Chắc chắn là có, giống như các linh mục người Pháp và những người ngoại quốc khác. Họ đều bị dẫn đi," anh trả lời tôi.

 

      Giữa đêm, hàng loạt tiếng súng liên thanh ngay trong khu vực gần nhất chúng tôi nổi lên tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch (5 lần)...

 

      "Xử tử," người đàn ông Việt Nam bên tay phải tôi nói. "Súng AK-47 Kalashnikov."

 

      "Sao anh biết?" Tôi hỏi.

 

      "Bây giờ nghe tiếng súng này quen quá rồi. Vừa rồi không phải là đánh nhau. Đó là năm loạt súng từ một khẩu liên thanh - có chủ đích rơ ràng."

 

      "Có gần đây không?" Tôi hỏi tiếp.

 

      "Không xa hơn trăm thước đâu."

 

      40 năm sau, tôi kết bạn với anh Tôn Thất Di tại miền Nam California, anh có họ hàng xa với hoàng tộc. Chúng tôi thảo luận về biến cố Tết Mậu Thân 1968 tại Huế và khám phá ra là cha anh, hai người chú và hai người anh em họ khác có thể là nạn nhân của vụ thảm sát đêm hôm đó. Cha của anh Di tên là Tôn Thất Nguyên đă từng là thị trưởng thành phố Đà Lạt và sau đó làm công chức bộ Xă Hội tại Sài G̣n mà trụ sở tôi rất quen thuộc v́ nằm sát cạnh tiệm cà phê La Pagode trên đường Tự Do.

 

      Tháng Giêng 1968, Tôn Thất Nguyên bay đến Huế để ăn Tết với các anh em và các cháu tại biệt thự của họ. Di và tôi đă nghiên cứu tấm bản đồ Huế. "Đây là vị trí căn nhà họ," anh nói, chỉ vào một điểm không xa hơn 100 thước cách khu nhà ăn của trại MACV. "Chúng tôi chỉ t́m thấy lại xác của một ông chú. Do đó chúng tôi không thể làm đám tang cho ông cụ được."

 

      Tôi không bao giờ biết được rằng tôi thực sự là nhân chứng nói của cái chết của họ hay đó là một vụ thảm sát khác, tuy nhiên khoảnh khắc đó nằm măi trong trí nhớ của tôi, chủ yếu bởi v́ nó được tiếp nối bằng một một kinh nghiệm siêu thực khác đă từng xảy ra quá nhiều với tôi tại Việt Nam: một con ǵ đó thật to, nóng ấm, kêu quàng quạc chui vào dưới ba chiếc túi đựng xác của tôi. Hóa ra đó là một con ngỗng trắng với cái mỏ màu vàng và lông xám hai bên cánh. Tôi lúc nào cũng thích ngỗng, nhất là khi chúng được quay và dọn với bắp cải đỏ vào dịp Giáng Sinh. Nhưng tôi chưa hề có được một con ngỗng nào chui rúc vào ḿnh như vậy cả, mà con này có vẻ hoảng hốt cùng cực. Cùng với hàng đoàn ngựi tỵ nạn Việt Nam con chim khiếp sợ này đă trốn vào khu trại Mỹ từ lúc đầu cuộc Tổng công kích Tết và chạy lạch bạch chung quanh khu đất từ đó, thỉnh thoảng kiểm tra những chỗ ngủ. Lính Mỹ đặt tên nó là Garfield. Như một con ngỗng canh gác, Garfield hằng đêm ra một điểm quan sát luôn luôn tại một chỗ cố định để ḍm chừng ra ngoài đường. Nhưng khi nó nghe thấy tiếng súng nổ ngay ngoài cổng, nó đă hoảng hốt t́m chỗ núp ngay bên cạnh tôi. Tôi đuổi nó ra khỏi khu vực ngủ, cho nó về chỗ canh gác lại.

 

      Lúc b́nh minh, nhóm phóng viên chúng tôi được phép rời khỏi doanh trại với điều kiện phải mang theo súng M.16 để tự vệ. Peter Neuhauser, Hilmar Pable và tôi nhận mỗi người một khẩu, nhưng theo đề nghị của tôi, chúng tôi đă căi lệnh và giao lại súng cho lính canh ngoài cổng. Trên đường đến khu chung cư của các Giáo sư người Đức đă bị bắt cóc, tôi lư luận: "Thử hỏi nếu chúng ta chạm trán với một toán tuần tiễu Việt Cộng th́ sao? Chúng ta sẽ bị chết ngay. Nếu không mang súng, ít nhất chúng ta c̣n vin cớ không phải là chiến binh, mặc dù chẳng biết có nghĩa lư ǵ với họ hay không."

 

      Vừa run rẩy trong cơn mưa phùn lạnh lẽo, chúng tôi vừa đi bộ về hướng Tây đường Lê Lợi. Cái đại lộ từng là một con đường lịch sự giờ đây vắng ngắt và trông hết sức tiều tụy. Những căn biệt thự lỗ chỗ vết đạn, cây cối đổ nát hay bị găy cành hết sống nổi. Khi chúng tôi đến gần Câu Lạc Bộ Thể Thao, nơi mà thỉnh thoảng tôi vẫn ăn tối với các Giáo sư Đức và cũng là nơi mà bà Elisabeth Krainick thường đến bơi, tôi mơ màng hy vọng là một người hầu bàn trung thành sẽ có mặt để pha cà phê cho chúng tôi nhưng đó chỉ là một ư tưởng điên rồ. Không c̣n một ai nữa, không có ai ngoại trừ lính TQLC Hoa Kỳ vượt qua mặt chúng tôi trên xe jeep và thiết vận xa. Trong một lúc bầu trời mây che phủ sáng ra và chúng tôi nh́n qua phía bên kia sông Hương. Chúng tôi thấy lá cờ Việt Cộng màu đỏ xanh với một ngôi sao vàng ở giữa đang bay trên pháo đài và nghe cả tiếng giao tranh ác liệt nữa.

 

      Khu chung cư gia đ́nh Krainick đang ở nh́n qua kinh Phú Cam. Một chiếc xe tăng Mỹ cũng đậu ở mạn Bắc của khu vực này. Đùng! chiếc xe tăng nă một phát đạn đại bác qua bên kia con kinh. Đùng đoàng! Cả căn chung cư rung chuyển khi chúng tôi đang leo lên chỗ ở của gia đ́nh Krainick trên lầu bốn. Có cả một trung đội TQLC đang đóng tại chỗ đó và căn pḥng trông hoang tàn khủng khiếp. Quần áo, sách vở, tài liệu khoa học và giấy tờ riêng tư bị ném bừa băi khắp nơi. Tôi hết sức bực ḿnh thấy Peter Neuhauser lục lọi đống giấy tờ và lén bỏ vào túi một số h́nh ảnh của gia đ́nh Krainick.

 

      "Mày không mắc cở hả?" Tôi hỏi anh ta.

 

      "Phải làm vậy thôi nếu anh làm việc cho một tạp chí h́nh ảnh," hắn lạnh lùng trả lời tôi và bỏ đi.

 

      Tay Trung đội trưởng là một Thiếu úy 23 tuổi dáng dấp chắc nịch quê tại New Mexico. Nh́n thoáng qua, tôi biết ngay hắn là một gă ngốc và cách ăn nói cũng đúng như vậy. Anh ta dưong oai diệu vơ trong một chiếc áo thun trắng, chẳng chịu mặc áo giáp hay đội nón sắt ǵ cả. Đùng! Chiếc xe tăng bắn thêm một quả nữa.

 

      "Xe tăng bắn vào cái ǵ vậy?" Tôi hỏi anh ta.

 

      Viên Thiếu úy dắt tôi đến một cánh cửa kính mở trông ra ban công và chỉ vào một căn biệt thự xây theo lối Tây bên kia con kinh:

 

      "Bọn Việt Cộng bắn tỉa," anh ta nói. "Tụi nó đang bắn về phía chúng ta."

 

      "Tại sao anh lại đứng đây với cái áo thun trắng, để làm mục tiêu tuyệt vời cho tụi nó sao?"

 

      "Thưa ông, tôi là TQLC, được huấn luyện để chiến đấu và để chết."

 

      "Có phải là dân đóng thuế bên Mỹ tốn cả nửa triệu bạc để đào tạo một sĩ quan chuyên nghiệp không?" Tôi thách thức anh ta. "Mặc dù anh không thiết mạng sống anh, bộ anh thật sự nghĩ là anh có quyền đặt cái vốn đầu tư đó một cách cẩu thả như vậy hay sao? Và tạo cơ hội để lính tráng mất người chỉ huy?" Anh ta nh́n tôi chẳng hiểu ǵ cả.     

      

      Khi tôi bước ra khỏi cửa chính đi xuống cầu thang th́ tôi nghe thấy một tiếng thét hăi hùng như chưa từng nghe thấy bao giờ. Tiếng hét không mang giọng người. Tôi quay lại. Viên Thiếu úy loạng choạng tiến về phía tôi tay ôm ngực bên trái máu phun ra có ṿi. Anh lảo đảo ngă xuống, lăn nhào xuống cầu thang và chết tức tưởi. Bọn bắn tỉa đă lấy mạng sống của anh.

 

      Tôi đi ngang qua bệnh viện trường Đại học mà Giáo sư Horst-Günter Krainick, Bác sĩ Raimund Discher và Bác sĩ Alois Alteköster từng làm việc. 75 phần trăm cơ sở đă bị phá hủy trong cuộc xung đột. Nh́n thấy quân phục tôi, hầu hết những thường dân Việt Nam tránh ánh mắt tôi. Họ quá sợ bị trông thấy đang kết thân với một "người Mỹ," mặc dù bảng tên trên nón sắt của tôi xác định tôi là một phóng viên người Đức, Tây Đức giống như các bác sĩ đă thành lập nên cái trường Đại học Y khoa. Rơ ràng là họ ngại rằng bọn Cộng sản có thể trở lại và trả thù những người mà họ thấy đă hợp tác với kẻ thù – những người như tôi.

 

      Một người đàn ông lớn tuổi lặng lẽ kéo tôi sang một bên để kể lại những câu chuyện kinh hoàng của những phiên ṭa khôi hài được gọi là ṭa án nhân dân. Nó được bọn Bắc Việt dựng lên để xét xử các cư dân thuộc tầng lớp quư tộc cũ, thành phần tư sản, các công chức VNCH, những người ngoại quốc, người công giáo ṭa thánh La Mă, các linh mục, nói chung tất cả những ai bị nghi ngờ không đồng ḷng với "Cách mạng."

 

      "Họ không bị bắt một cách t́nh cờ đâu, thưa ông," ông ta nhấn mạnh, "Tên tuổi của những người đó nằm trên danh sách mà bọn cán bộ Cộng sản mang theo. Tại những phiên ṭa như vậy, họ không có cơ hội để tự bào chữa. Họ bị tuyên án, mang đi và bị bắn bỏ."

 

      "Có bao nhiêu người?"

 

      "Làm sao biết được? Hàng trăm, hàng ngàn?"

 

      Cho đến ngày hôm nay vẫn không có con số chính xác bao nhiêu nạn nhân. Những con số ước đoán vào khoảng từ 2.500 đến 6.000 người.

 

      "Phần tệ hại nhất của cuộc tấn công này là khi giao tranh lan đến khu điều trị bệnh tâm thần," ông già tiếp tục câu chuyện. Ông không cho tôi biết tên tuổi hay chức nghiệp nhưng trông ông có vẻ là một người có học qua trường Tây. "Các bệnh nhân trở nên điền cuồng, họ chạy khắp nơi, đánh lẫn nhau trong cơn hoảng loạn. Ông không thể nào tưởng tượng được nó như thế nào. Nhiều người bị mất mạng v́ họ không thể chạy khỏi lằn đạn hai bên bắn nhau. Thật giống như một cảnh tượng trong vở kịch Hỏa ngục của Dante."

 

      "Lúc đó th́ ông đang ở đâu?:

 

      "Tôi trốn trong đám bệnh nhân, thưa ông, và làm bộ cũng là bệnh nhân vậy tuy thật sự không phải, và điều này đă cứu sống tôi."

 

      Ông khuyên tôi nên đi qua thính đường chính của trường Đại học lúc đó đang chật cứng hàng trăm người vô gia cư, tất cả vẫn ăn mặc chỉnh tề, c̣n đang ở các trạng thái bàng hoàng với những nét mặt không c̣n cảm xúc ǵ nữa. Nhiều người bị thương và có rất ít, nếu có, các  y tá và bác sĩ để chăm sóc họ. Không có nước máy, không có điện và không có cả phương tiện vệ sinh.

 

      "Hăy qua bên trường Quốc học nữa," ông già nói với tôi và đây là một lời khuyên đúng. Ngôi trường Trung học tuyệt đẹp này nằm trên mạn Nam của ḍng sông Hương là một trong những cơ sở tráng lệ nhất trong cả nước. Được thành lập bởi Ngô Đ́nh Khả, phụ thân của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm vào năm 1896 như là một viện giáo dục quốc gia ưu tú để dậy dỗ cho các hoàng tử và con cái các Đại thần có được một nền giáo dục hỗn hợp Pháp và Viễn Đông. Danh sách học sinh giống như danh sách "Who's Who" (Danh nhân) của nền chính trị Việt Nam, miền Bắc cũng như miền Nam. Ngô Đ́nh Diệm đă từng học tại đó, Hồ Chí Minh cũng vậy dưới cái tên cúng cơm Nguyễn Sinh Cung, đồng thời có cả tướng Vơ Nguyên Giáp cũng như Phạm Văn Đồng, con của một vị quan nhất phẩm triều đ́nh.

 

      Khi tôi đến khuôn viên trường, nó lại giống như một khu trại tỵ nạn nữa. Có ai nói với tôi là có khoảng 8.000 người tạm trú trong cái cơ sở đẹp đẽ đó, nhiều người run rẩy trong cơn giá lạnh chờ được phát thức ăn và nước. Mặc dù tôi không thể kiểm tra được con số đó nhưng thực tế là rất nhiều.

 

      Trên đường quay về khu trại MACV tôi phát hiện ra hàng chữ vẽ nguệch ngạc trên tường của một căn biệt thự lớn. Hàng chữ viết "Cắt đầu Mỹ." Khi tôi nh́n kỹ hơn th́ thấy chữ "Mỹ" chỉ mới thay chữ "Pháp" không lâu. Có lẽ tôi hơi nóng vội tiết lộ trước chương sau nhưng cái thông tin này phù hợp với chuyện vài tuần lễ sau, khi tôi đi thăm trở lại Huế th́ cái khẩu hiệu này được đổi thành "Cắt đầu Cộng sản!" Điều này cho tôi biết là sự ghê tởm đối với hành vi của Việt Cộng đă làm thay đổi niềm ghét bỏ người ngoại quốc của dân Huế nếu có, cũng như đă thay đổi tư tưởng bài ngoại khá mạnh mẽ tại đây. Tư tưởng bài ngoại khiến người Mỹ cho tới Tết 1968 đă phải giữ một thái độ thật âm thầm trong cái thành phố này. 25 ngày đêm chiến sự tại Huế, sự bắn giết, đập đầu đến chết và chôn sống hàng ngàn cư dân, đưa đến 116.000 người mất nhà cửa trong một dân số vỏn vẹn 140.000 đă mang lại cái kết quả thất bại nặng nề nhất đối với Cộng sản: nếu có lúc nào Cộng sản được ḷng dân chúng Huế th́ nay chúng đă mất hết rồi.

 

      Tôi đi nhanh về trại MACV để điện thoại tường thuật câu chuyện cho bạn đồng sự với tôi là Friedhelm Kemna ở Sài G̣n, cũng như để báo tin cho Nam tước von Collenberg tại ṭa Đại sứ tin tức cập nhật về các vị bác sĩ Đức. Chỉ có một đường giây điện thoại ra ngoài mà có cả một hàng dài người đang chờ đợi để gọi đi. Hai tiếng đồng hồ sau mới tới phiên tôi. Lúc đó tôi phải làm việc thông qua một loạt các cuộc trao đổi quân sự với hy vọng là các điện thoại viên đều thông thạo công việc. Thực tế không phải như vậy.

 

      Tôi lớn tiếng thét lên trong điện thoại dă chiến: "Huế đây, làm ơn cho tôi Phú Bài! - Phú Bài, cho tôi Đà Nẵng! - Đà Nẵng, cho tôi Nha Trang! - Nha Trang, cho tôi Qui Nhơn! Qui Nhơn, cho tôi Tân Sơn Nhất! - Tân Sơn Nhất, cho tôi Mănh Hổ (trung tâm điện thoại quân sự Sài G̣n)! - Mănh Hổ, cho tôi PTT - PTT, làm ơn cho tôi khách sạn Continental."

 

      Sau hai lần thất bại, sau cùng tôi gọi được khách sạn, trong ḷng cầu nguyện là "kẻ thù" của tôi, cái gă Ấn Độ từ Madras lúc nào cũng say mùi thuốc phiện không trực điện thoại chiều hôm đó. Nhưng hắn đă có mặt!

 

      "Siemon-Netto đây, làm ơn cho tôi nói chuyện với Kemna đi," tôi nói bằng tiếng Pháp.

 

      "Ông Siemon-Netto không có ở đây," gă nghiện thuốc phiện nói và cúp điện thoại cái rụp!

 

      Cảm ơn Chúa, người đồng nghiệp Mỹ đằng sau đuôi tôi cũng ở khách sạn Continental và có một người nhận tin đang chờ sẵn tại đó. Anh ta đọc xong bản báo cáo và nói phía bên kia giữ đường đây để chạy qua gọi Freddy cũng ở cùng tầng lầu với nhau. Do đó, sau cùng tôi cũng xoay sở gởi bài tường thuật cho Freddy xong và yêu cầu anh chuyển lời nhắn qua cho Nam tước Collenberg.

 

      Sau đó th́ tôi cảm thấy thèm rượu. Cảm ơn Chúa, tôi có mang theo một b́nh huưt ky mỏng trong ba lô. Sau những kinh nghiệm rùng rợn của ngày hôm đó, một vài ngụm từ cái b́nh đó cộng thêm vài lát bánh ḿ pumpernickel thật là một niềm hạnh phúc hoàn hảo. Bây giờ tôi phải chờ quân đội Mỹ di hành.

 

      Cổ thành Huế và pháo đài vẫn c̣n nằm trong tay của khoảng 10.000 quân Bắc Việt. Chúng tôi được nghe là Sư đoàn 1 bộ binh VNCH mặc dù chiến đấu dũng mănh vẫn chưa vào được mạn Tây Bắc sau khi cố gắng tái chiếm pháo đài và đang chờ các đơn vị của Sư đoàn 1 TQLC Hoa Kỳ tấn công từ mạn Đông Nam. Nếu chuyện này xảy ra, tôi dự định sẽ bám theo một trong những Trung đội đó.

 

      Những ǵ xảy ra tiếp theo đó quá kinh hoàng khiến tôi chỉ c̣n nhớ lại trong đầu những mảng rời rạc của cái ngày tôi tháp tùng một Trung đội TQLC vượt qua con sông Hương vào lúc ba giờ sáng. Tôi c̣n nhớ là Trung đội đó đông hơn b́nh thường, quân số khoảng 53 người. Tôi cũng nhớ là các cấp chỉ huy có bản lĩnh hơn nhiều đám chỉ huy Trung đội tôi đă gặp trong căn chung cư của Krainick. Đau buồn thay là tôi chứng kiến hầu hết trong số họ bị thương hay thiệt mạng trước khi ngày hôm đó chấm dứt.

 

      Tôi nhớ chúng tôi đă giao tranh trong từng căn nhà gần như bắt đầu từ thời điểm đặt chân lên mạn Nam bờ sông. Bọn Bắc Việt cố thủ hết sức chặt chẽ bắn về phía chúng tôi từ khắp các cánh cửa sổ. Tôi t́m lại được câu chuyện tôi viết về trận chiến này trong tờ nhật báo Amsterdam De Telegraaf, một chi nhánh của Springer Foreign News Service. Bài báo tập trung vào cái kinh nghiệm đau đớn nhất của tôi ngày hôm đó, một trong nhiều chuyện mà tôi chỉ c̣n nhớ một cách mơ hồ. Tôi chạy bên cạnh một tay Hạ sĩ da đen. Chúng tôi bị gh́m chặt bởi lằn đạn bắn tỉa từ một cửa sổ phía trên một căn lầu nên vội vàng nhào xuống đất. Viên Hạ sĩ bắn từng loạt M.16 tưới lên cửa sổ để áp đảo kẻ địch. Nhưng rồi khẩu súng anh bị kẹt đạn, dường như tất cả loại súng đó thường hay bị kẹt hoài như vậy tại Việt Nam. Tay súng bắn tỉa lập tức nă đạn vào chúng tôi.  Tay Hạ sĩ ném một quả lựu đạn vào trong cửa sổ. Ngay lập tức tiếng súng ngừng lại và anh Hạ sĩ reo ḥ lên.

 

      Tiếp theo đó một người phụ nữ bước ra khỏi nhà bồng xác một đứa trẻ đẫm máu đi về hướng anh Hạ sĩ. Anh ta phát hoảng. "Ôi trời đất ơi! Ôi trời đất ơi, tôi đă làm ǵ vậy? Tôi đă giết một đứa bé! Cứu con với Chúa ơi! Trời ơi, trời ơi!!!" Anh hét lên quay cuồng như mắc cơn động kinh trong khi đó th́ Việt Cộng tiếp tục bắn tỉa về phía chúng tôi từ các cánh cửa sổ khác. Tay Trung sĩ Trung đội phải dùng sức kềm chặt anh ta lại và sau đó dẫn anh ra khỏi vùng chiến đấu.

 

      Măi đến ba giờ chiều tôi mới có dịp coi giờ trên cái đồng hồ của tôi trong một lúc tạm lắng giao tranh. Tôi nh́n chung quanh. Những người lính cùng chung lưng với tôi 12 tiếng đồng hồ trước đây đâu cả rồi? Tôi đếm được 10, có thể là 15. Những người khác hoặc đă bị thiệt mạng hoặc bị thương. Một Trung đội khác đến thay chúng tôi. Đă đến lúc tôi phải ra khỏi nơi này thôi. Tôi xoay sở về lại được sông Hương. Kỳ lạ thay là bọn Cộng sản đă để lại cây cầu chính c̣n nguyên. Tôi đi bộ qua đó và đến một khu vực băi đáp trực thăng đầy những người bị thương nặng, có đến hàng trăm người, nhiều người đang rên rỉ v́ đau đớn.   

 

      "Thưa Thiếu tá," tôi hỏi viên sĩ quan phụ trách băi đáp, "chuyện ǵ xảy ra ở đây vậy? Tại sao những người bị thương vong này chưa được tản thương đi?"

 

      Hắn chỉ tay lên trời: "Điều kiện bay xấu!"

 

      "Nhưng thưa Thiếu tá, tôi đă từng thấy thời tiết tồi tệ hơn nhiều. Trần mây c̣n đủ cao mà," tôi phản đối.

 

      "Đúng vậy nhưng anh thấy đó, TQLC chúng tôi không có đủ trực thăng."

 

      "Lục Quân th́ sao? Tôi biết là cách đây 10 dặm ở Phú Bài có hai phi đoàn trực thăng của Lục Quân đang sẵn sàng tác chiến."

 

      "Thưa ông, TQLC chúng tôi  không gọi nhờ Lục Quân bao giờ."

 

      Tôi nhớ đă tự nhủ trong ḷng: một cái lá phong trên ve áo bộ quân phục Thiếu tá rơ ràng không phải là giấy chứng nhận cho một chỉ số thông minh cao. Đă đến lúc phải rời nơi đây thôi. Hí trường của sự phi lư đang biểu hiện dấu hiệu của sự điên rồ đây. Tôi đă thấy những mặt đẹp đẽ nhất cũng như những điều xấu xa nhất của nhân loại trong vài ngày vừa qua: sự hy sinh đầy thương tâm và ḷng dũng cảm tương phản với sự ác độc không thể tưởng tượng nổi của Cộng sản và sự xuẩn ngốc của một thiểu số khờ khạo chứng nhận được mặc quân phục.

 

      Tôi nhớ là nước mắt tôi đă ràn rụa khi nghĩ đến những người tôi thấy đă ngă xuống tại Huế, hầu hết là phụ nữ và trẻ em, và những thương binh trẻ Mỹ nằm trên cáng rên rỉ trong đau đớn cùng cực mà không có ai để báo cho họ biết nguồn tin an ủi là họ đă đánh bại quân thù. Hơn một nửa trong số 80.000 Cộng quân tham gia vào Tổng công kích Tết Mậu Thân đă bị thiệt mạng, hạ tầng cơ sở Việt Cộng hoàn toàn bị phá vỡ. Đây là một chiến thắng quân sự lớn.  Một chiến thắng cam go cho phe Đồng minh, nhưng là chiến thắng hiển nhiên.

 

      “Ich habe genug vom Tod,” tờ báo Chủ nhật toàn nước Đức Bild am Sonntag đă lên tựa cho bài tường thuật của tôi từ Huế như vậy, có nghĩa là "Tôi đă chán cảnh chết chóc đó lắm rồi." Tôi rất nôn nóng thoát ra khỏi Huế. Nh́n thoáng qua băi đáp trực thăng tôi đoán là tôi không có hy vọng ǵ mau mắn đáp được một chuyến trực thăng. Tuy nhiên tôi trông thấy một chiếc tầu đổ bộ LCU của Hải Quân Việt Nam gần đó. Tôi chạy đến chiếc tầu và gặp người chỉ huy là một Trung úy với làn da sậm dầy như một thủ lĩnh da đỏ Comanche.

 

      "Chúng tôi sắp ra khơi đây," anh ta nói, "Ḿnh nên chào mừng cho sự tiến bộ: đây là lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu Tổng công kích Tết có một chiếc LCU vận hành đến khúc sông này. Sẽ có rắc rối đấy!" Chúng tôi hướng về phía Đông và lập tức bị hỏa lực súng nhỏ bắn tới từ hướng Bắc với loạt đạn đụng vỏ tầu dội ngược ra. Nhưng chiếc tầu vẫn tiếp tục đi về phía đầm phá Tam Giang, mặc dù tôi không ở trên tầu lâu lắm. Tiếng súng lắng dần khi chiếc tầu tăng khoảng cách với Huế. Tôi ngủ thiếp đi. Khoảng giữa đêm, viên Trung úy lay tôi dậy nói, "Anh nên xuống chỗ này đây." Anh đă đậu tầu lại tại băi cảng của một căn cứ MACV nhỏ ở mạn Nam ḍng sông.

 

Tôi không c̣n nhớ bằng cách nào từ đó tôi về lại Đà Nẵng, có lẽ bằng trực thăng. Tôi chỉ biết là tôi đến doanh trại báo chí hoàn toàn như một cái giẻ rách. Tôi chưa cạo râu trong tám ngày trời. Hai bàn tay bẩn thỉu, những ngón tay vàng khè v́ khói thuốc và ḿnh mẩy hôi ŕnh. Tôi không c̣n nhớ tôi có đói hay không nữa, bộ phận tiêu hóa của tôi đă hoàn toàn khép lại từ khi tôi rời khỏi trung tâm báo chí này hơn một tuần lễ trước đó.

 

      Tôi mượn đồ lót và một bộ quần áo trận mới từ một sĩ quan Mỹ và xin một người phụ nữ làm việc quét dọn trong khu trại giặt quần áo cho tôi càng nhanh cành tốt. Lúc đi tắm, một làn nước màu đen xám chảy từ mái tóc và thân thể tôi xuống. Cạo sạch bộ râu lởm chởm là việc làm chính trong ngày. Sau đó tôi xuống hội quán uống hai ly Dry Martini nhưng không thể ăn được bất kỳ thứ ǵ. Do đó tôi nằm thẳng cẳng trên giường và ngủ một mạch bốn tiếng đồng hồ rồi dậy viết bài tường thuật và gọi điện thoại báo cáo cho Freddy ở Sài G̣n.

 

      Cuối ngày hôm đó tôi ghé thăm chiếc Helgoland, cảm ơn thay, nó đă quay về bến. Tuy nhiên trên boong lại thông báo là chiếc tầu sắp rời cầu tàu và yêu cầu tất cả khách đến thăm hăy trở về. "Ở lại với chúng tôi đi," các y tá và bác sĩ khẩn khoản, "Trông anh tiều tụy quá. Hăy ăn một bữa cho ngon, uống một vài ly rượu, quên chiến trận trong một đêm và nghỉ ngơi đi." C̣i tầu hụ lên. Tôi không thể nào nhấc ḿnh nổi cho dù tôi có muốn đi chăng nữa. Những người bạn Đức đă cho tôi một khoảng thời gian rất yên trên hải phận quốc tế.       

 

Những giây phút hạnh phúc đó không kéo dài lâu. Buổi sáng hôm sau tôi quay về trung tâm báo chí. Quần áo tôi đă có lại và tôi may mắn đón được một chiếc trực thăng bay trở lại Huế. Trong doanh trại MACV tôi chạm trán với Peter Braestrup, trưởng pḥng Washington Post tại Sài G̣n.

 

      "Họ đă t́m thấy một mồ chôn tập thể," anh nói, "chúng tôi đang định đi tới đó, vậy sao anh lại không muốn đi theo hả?" Một chiếc xe vận tải quân sự chở chúng tôi và các phóng viên khác đến một chỗ thuộc ngoại vi phía Tây Bắc của Huế mới giành khỏi sự kiểm soát của Cộng sản không bao lâu. Có hàng trăm phụ nữ, đàn ông và trẻ em trong nấm mồ đó, nhiều người rơ ràng bị chết cháy, nhiều người bị nện cho tới chết và nhiều người khác bị chôn sống, theo lời của một sĩ quan VNCH.

 

      "Làm sao biết là họ bị chôn sống?" Tôi hỏi anh ta.

 

      "Chúng tôi t́m thấy địa điểm này khi phát giác có những bàn tay mới làm móng chĩa ra khỏi mặt đất," anh trả lời, "Những phụ nữ này đă cố ḅ ra khỏi mồ chôn họ."

 

      Peter Braestrup thúc cùi chỏ trái vào tôi và chỉ tay vào một toán truyền h́nh Mỹ gồm một phóng viên, một tay quay phim và một nhân viên âm thanh đang đứng trước khu mồ chôn một cách ung dung không có hành động ǵ cả.

 

      "Tại sao các anh không quay cảnh này?" Peter hỏi họ.

 

      "Chúng tôi đến đây không phải để quay phim tuyên truyền chống cộng," gă quay phim đáp.

 

      "Thật là điên khùng, Peter," tôi nói, "Tôi đă chán ngấy cái thứ này lâu rồi."

 

      "Tôi không trách bạn đâu. Chúng ta đang thua trận chiến này sau khi đă thắng về mặt quân sự. Tất cả ở trong cái đầu mà thôi."

 

      Ngày hôm đó là một ngày hên của tôi tại Huế. Tôi t́m được một chuyến bay tại phi trường. Có một chuyến Air Vietnam DC-6 sắp cất cánh đi Sài G̣n và tôi có được một chỗ ngồi trên đó. Freddy Kemna nóng ruột chờ tôi tại Continental. Anh đă tỏ ra sốt sắng giữ chỗ và làm người nhận báo cáo cho tôi nhưng bây giờ anh cũng muốn đi ra ngoài chiến trường, tức khu châu thổ sông Cửu Long với một phóng viên Đức khác. "Tôi thích đồng bằng vào khoảng thời gian này trong năm. Ấm áp hơn," anh nói đùa.

 

      Đó là một ngày Thứ Năm và tôi không mong ǵ hơn là được đi dự buổi Stammtisch của Donald Wise, tức bữa ăn tối thường xuyên của các phóng viên Âu Châu tại quán Aterbéa, nơi không một ai được phép nói về chiến tranh, về Việt Nam, về chính trị của Hoa Kỳ hay tất cả những vấn đề ǵ có liên quan dù mơ hồ nhất với toàn bộ sự việc.

 

      Sau bữa ăn, Donald nói, "bây giờ đă xong rồi và chúng ta được phép nói về chiến tranh trở lại, cho tôi đề nghị thế này: Hay là anh và tôi chia nhau một chiếc taxi để đưa chúng ta đến những mặt trận khác nhau ngay tại Sài G̣n vào mỗi buổi sáng? Cái này rất tốn kém v́ tài xế tắc xi có thể gặp rủi ro là xe bị nổ tung. Tôi nghĩ cũng đáng làm lắm. Bọn Mỹ không quan tâm nhiều đến những trận chiến lẻ tẻ này v́ chủ yếu thuộc hoạt động của Quân lực VNCH. Tuy nhiên điều này dù sao cũng rất quan trọng."

 

      V́ vậy chúng tôi kiếm được một bác tài có kinh nghiệm chiến trận và một chiếc Buick có máy điều ḥa không khí. Ông đến Continental mỗi sáng để đón chúng tôi đi từ một vùng giao tranh trong thành phố này đến một vùng khác. Một buổi sáng nọ chúng tôi rơi vào một khu giao tranh cận chiến vùng Đông Nam ngoại ô Sài G̣n. Quân lực VNCH kiểm soát một bên đường và bên kia là Việt Cộng hay quân Bắc Việt. Có một căn nhà đang bị cháy phía tay trái chúng tôi. Chúng tôi nghe tiếng một phụ nữ thét lên, "Có một con nhỏ trong nhà! Cứu tôi với!"

 

      Chúng tôi đang nằm dài dưới mặt đất. Donald đứng dậy, lênh khênh với chiều cao một mét chín. Vừa sửa cái nón sắt và tay phải lủng lẳng cái dù che mưa, anh ta thận trọng đi từng bước dọc theo con đường c̣n đang đánh nhau tới căn nhà đang cháy. Cả hai bên ngừng tiếng súng. Donald bước vào trong và trở ra với một bé gái trên tay, cái dù che mưa vẫn c̣n treo lủng lẳng. Anh mang cô bé đến một chiếc xe tải thương phía VNCH, trao nó cho anh tài xế và nói, "Đưa nó đến bệnh viện, anh bạn à - Đưa nó đi ngay bây giờ."

 

      Sau đó Donald lại phóng ḿnh xuống núp dưới đất và tiếng súng lại nổi lên.

 

      Chúng tôi quay về trung tâm thành phố ăn trưa tại Royal và lái đến vùng Tây Nam Sài G̣n mà theo như bác tài đang có cuộc giao tranh khốc liệt trong từng căn nhà giữa Việt Cộng và Biệt Động Quân VNCH. Khi lái đến gần, chúng tôi thấy nhóm BĐQ đang lúng túng, sau này mới biết v́ các sĩ quan và hạ sĩ quan đă bị tử trận rồi. Giữa cơn hỗn loạn đó th́ anh bạn đồng nghiệp Hans von Stockhausen của chúng tôi, một phóng viên truyền h́nh Đức lại đang đứng thẳng người không bối rối, cái đầu th́ ngoẹo về một phía.

 

      Câu chuyện cái đầu bị nghiêng của anh chàng bắt nguồn từ Thế Chiến Thứ Hai khi von Stockhausen là một Thiếu tá trẻ tuổi đang ở trong ḷ luyện Stalingrad và anh bị bắn bể một nửa cái sọ. Anh là người thương binh cuối cùng được tản thương ra khỏi Stalingrad trên một chiếc máy bay của Không lực Đức Luftwaffe trước khi thành phố này rơi vào tay Hồng Quân. Bác sĩ giải phẫu quân đội đă thay thế miếng xương sọ bị mất bằng một tấm kim loại bằng bạc làm cho cái đầu anh ta bị nặng cứ nghiêng về một bên. Điều này vẫn không ngăn cản anh chàng vui tính xuất thân từ một gia đ́nh quân nhân lâu đời đi làm phóng sự tất cả mọi cuộc chiến tranh mà anh ta ṃ ra được với tư cách một phóng viên. V́ vậy Donald Wise đặt biệt hiệu anh là viên "Thiếu tá phi nước đại."

 

      "Ah, Herr Vise," anh Thiếu tá gọi to bằng tiếng Anh pha ngọng tiếng Đức, "Zere is no system here, zere is no system here. You vere a field-grade officer, I vas a field-grade officer. Now let’s together bring some system into this mess.” (Ở đây chẳng ra cái thể thống ǵ, ở đây chẳng ra cái thể thống ǵ cả. Anh đă từng là sĩ quan cấp tá, tôi cũng đă từng là sĩ quan cấp tá. Nào chúng ta cùng nhau mang lại một ít thể thống cho cái mớ hỗn độn này đi).

 

      Do đó Donald Wise, cựu Trung tá quân đội Hoàng gia Anh và Hans von Stockhausen, cựu Thiếu tá quân đội Đức, lặng lẽ hướng dẫn các Trung sĩ và Hạ sĩ c̣n sống sót của một Đại đội Biệt Động Quân VNCH cách tổ chức pḥng thủ trong t́nh huống chiến đấu trong thành phố và chẳng bao lâu sau th́ cuộc đụng đ chấm dứt.

 

      Nhiều năm sau, Donald Wise luôn nhắc với tôi, "tôi mê cái tay Thiếu tá nhanh như cắt này lắm rồi. Thật là một nhân vật kỳ diệu! Tôi rất mong được dịp bàn về 'thể thống' với hắn ta lần nữa."

 

      Chúng tôi lái trở về Continental. Vài ngày sau tôi đáp chuyến Air Vietnam bằng phản lực Caravelle đến Hồng Kông. Gillian đă chờ tôi tại phi trường Kai Tak. Nàng trông rất tươi mát trong chiếc váy ngắn lộ ra đôi chân quần vợt tuyệt vời rám nắng, miệng nở một nụ cười ngọt ngào nhất. Nàng dắt theo một con chó Schnudel đặc thù của vùng New Territories, nửa giống chó chow Tàu nửa giống chó xù, màu trắng đầy lông với một cái lưỡi màu xanh.  Tôi rất thích con chó nhỏ này v́ cái tật kỳ cục hay chào mừng khách phụ nữ của chúng tôi - mà chỉ người đẹp thôi - bằng một cái cắn nhẹ vào mông họ.

 

      "Chúng ḿnh đến tiệm Peninsula để mừng ngày trở về của anh bằng một bữa ăn tối sớm đi anh," Gillian đề nghị khi chúng tôi trèo lên chiếc Volkswagen màu đỏ, "Em biết anh đang thèm một miếng thịt ḅ Steak Tartare và một chai vang đỏ Úc." Tính nết tuyệt vời nhất của Gillian là cá tính sôi nổi của cô.  Nàng làm tôi thú vị với những mẩu chuyện vui nhộn của khung cảnh xă hội thuộc địa của Vương quốc Anh. Tôi không nghĩ có khi nào tôi vui thích nhiều hơn tối hôm đó với nàng sau nhiều tuần lễ bị chấn thương.

 

      Nhưng khi chiều xuống chúng tôi đến căn chung cư trên đỉnh Victoria Peak th́ nàng đột nhiên trở nên nghiêm trọng. Nh́ng thẳng vào mắt tôi, nàng hỏi, "Chuyện ǵ xảy ra với anh vậy, anh yêu? Trông anh xa vắng quá. Anh chưa ôm em hay hôn em thật sự nữa. Mọi chuyện ổn cả chứ?"

 

      Bây giờ tôi không thể nhớ đă kể sự thật cho nàng ngay lúc đó hay vài ngày sau nhưng rốt cuộc tôi cũng nói được với nàng câu trả lời đúng nhất: "Anh đă không ôm em trong ḷng như đáng lẽ anh phải làm, và cũng không cho em một nụ hôn thích hợp nhất v́ anh không muốn làm em bị ô uế. Từ ngày Tết Mậu Thân tại Huế đến nay anh cảm thấy đă bị nhiễm bẩn vô cùng.” Tôi bị ám ảnh bởi một cảm giác lơ là bổn phận mà tôi chưa từng bao giờ có. Hàng tuần lễ sau đó tôi không cưỡng nổi cái thôi thúc cứ phải nhảy vào ṿi sen nóng để kỳ cọ thân thể nhiều lần trong ngày. Gần một nửa thế kỷ sau, thỉnh thoảng tôi nhận thấy cái tật này bị tái phát. Tôi chỉ biết gán những hồi ức này cho một sự kiện không thể chối căi được, là tôi đang già đi rồi.