Site map
Tìm Kiếm Bài Đã Đăng
Loading
QUÂN Y KHÔNG QUÂN
Biên soạn của KQ Y sĩ Nghiêm Xuân Húc

Từ ngày thành lập Không Quân đến năm 1975, Quân Y Không Quân (QYKQ) đã phát triển theo sự bành trướng của Không Quân cũng như theo sư tiến bộ của Y Khoa. Từ những trạm cứu thương trang bị sơ sài với ít dụng cụ y khoa thô sơ, QYKQ đã tiến tới thành lập các bệnh xá, Trung Tâm Y Khoa và Bệnh Viện KQ trang bị với dụng cụ cần thiết để định bệnh. Các chuyên viên từ y sĩ chuyên khoa, y sĩ phi hành, dược sĩ, nha sĩ cho đến các nữ điều dưỡng viên, y tá phi hành, y tá chuyên khoa, chuyên viên phòng thí nghiệm, chuyên viên y khoa phòng ngừa v.v… đã được huấn luyện chu đáo để thích ứng với nhiệm vụ giao phó.

Đặc biệt QYKQ đã cố gắng vượt mọi khó khăn để đạt mục tiêu là cung cấp mọi dịch vụ y tế cần thiết và hữu hiệu tới thương bệnh binh và gia đình quân nhân thuộc binh chủng KQ.

Để thể hiện một cách trung thực ngành QYKQ, ban Biên soạn QY đã cố gắng thu thập những sự kiện liên quan đến QYKQ, gom góp những tài liệu do các quân nhân đã từng phục vụ trong ngành cung cấp. Sau khi nhận được tài liệu, Ban Biên Soạn đã thận trọng đối chiếu các dữ kiện cho được chính xác, tham khảo ý kiến của các bạn đồng ngũ đã hoạt động trong cùng một đơn vị để tìm hiểu sự thật. Sau đó, bản thảo được sửa sai, bổ khuyết và một số chi tiết đã được cắt xén cho gọn. Cuối cùng các sự kiện được đúc kết, trình bày minh bạch, xếp đặt trong lịch trình để việc tham khảo quân sự được thuận tiện và nhanh chóng.

Mặc dầu những biện pháp kiểm soát các sự kiện cho được chính xác đã được áp dụng triệt để, nhưng kẽ hở sai lầm không thể tránh được. Lý do chính là tài liệu cung cấp đã không được căn cứ vào những văn kiện mà lại phụ thuộc vào trí nhớ. Sau thời gian 30, 40 năm nhiều chi tiết và đặc biệt là thời điểm đã bị lãng quên trong quá khứ. Vì vậy Ban Biên Soạn lịch sử QYKQ chỉ mong cuốn Quân sử KQ sau khi đã được ấn loát, có cơ hội được bổ túc và sửa sai những khuyết điểm khi tái bản.

Tất cả những tài liệu này là do sự góp sức của tất cả các anh chị em y, nha, dược sĩ, hành chánh, điều dưỡng, kỹ sư y tế cuả QYKQ đã moi trí nhớ để viết lại và không có một tài liệu lịch sử nào để tham khảo.

Nếu có những sự sai lạc hoặc trùng hợp là ngoài ý muốn của QYKQ.


Sau đây là lịch trình phát triển QYKQ và những phụ bản liên hệ tới tổ chức điều hành, nhân sự và các hoạt động của các đơn vị thuộc QYKQ.

CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG QUÂN Y KHÔNG QUÂN

A. Cơ Sở

Năm 1956,Căn Cứ 3 (Tân Sơn Nhứt) được Pháp bàn giao. Vì thiếu quân y sĩ Việt Nam nên Y sĩ Thiếu Tá Trần Văn Quấc, Y sĩ Trửơng đầu tiên của KQ Việt Nam, đã làm việc chung với Y si Trung Tá Chenet thuộc Quân Y KQ Pháp. Ngoài chức vụ Y si Trưởng KQ, Y sĩ Thiếu Tá Trần Văn Quấc còn đảm nhiệm viêïc khám ngoại chẩn cho quân nhân đồn trú tại Can Cứ Tân Sơn Nhứt.


Khoảng giữa năm 1956, cơ sở y tế trong phi trường TSN được QYKQ sử dụng là Infirmerie Hopital BA191 (Base Aerienne 191) Cơ sở này sau được dùng làm trường Tiểu Học Tân Sơn. Về trang bị y dụng, cơ sơ nghèo nàn, thuốc men thiếu thớn, vật dụng y khoa không có gì dáng kể ngoài một máy điện tuyén X Ray loại dã chiến của Hoa Kỳ, vài y dụng để tiểu giẩi phẫu. Một phòng Nha khoa nhỏ trang bị rất sơ sài.


Sau đó, Nha Quân Y bổ xung y, nha, dược sĩ va tiếp liệu y dược, bệnh xá Căn Cứ TSN được thành lập tại cư xá sĩ quan độc thân của KQ Pháp và văn phòng Y sĩ Trưởng KQ được thiết lập gần bệnh xá. Sau nhiều lần trùng tu, bệnh xá Căn Cứ TSN tồn tại tới cuối năm 1969(?) mới chuyển sang cơ sở mới đủ tiện nghi hơn. Trong quá trình vừa hoạt động, vừa xây dựng QYKQ đã được yểm trợ để đáp ứng nhu cầu của KQ. Chi tiết được ghi trong các phụ bản (xem phu bản Mục Lục)

B. Chức vụ Y sĩ Trưởng & Nhiệm vụ.

- Trong giai đoạn đầu, vị chỉ huy cao cấp nhất trong ngành QYKQ là Y sĩ Trưởng Không Quân với nhiệm vụ là chỉ huy và điều hành QYKQ.

- Vào khoảng giữa thập niên 60(thời điểm không rõ), chức vụ Y sĩ Trưởng KQ được đổi là Phụ Tá Quân Y/BTLKQ kiêm Phụ Tá Không Quân/Cục Quân Y QLVNCH.

- Năm 1970, Sư Đoàn KQ được thành lập. Trong bộ Tham Mưu của Sư Đoàn có chức vụ Phụ Tá QY/ Sư Đoan. Chức vụ Phụ Tá QY/BTLKQ được đổi là Quân Y Trưởng Không Quân kiêm Phụ Tá QY/BTLKQ đồng thời kiêm Phụ Tá KQ/ Cục Quân Y QLVNCH với nhiệm vụ chính là chỉ huy và điều khiển ngành QYKQ đồng thời là sĩ quan tham mưu của BTL về vấn đề y khoa kiêm Phụ Tá KQ Cục Trưởng Cục Quân Y, đặc trách về các vấn đề lien tới y khoa và không quân.

C. Nhân sự & Tổ chức

Sau đây là các sĩ quan chỉ huy ngành Quân Y KQ liên tiếp từ năm 1956 đến năm 1975:

Y sĩ Trung Tá Trẩn Văn Quấc, Y sĩ Trửơbg KQ từ 1956 dến 1961.
Y sĩ Đại Tá Nguyễn Tấn Hồng, Y si Trưởng KQ từ 1961 đến1965.
Y sĩ Đại Tá Đỗ Xuân Giụ, Quân Y Trưởng KQ kiêm Phụ Tá Quân Y /BTLKQ, kiêm Phụ Tá KQ/Cục QY từ 1965 dến 1972.
Y sĩ Đại Tá Nghiêm Xuân Húc, Quân Y Trưởng KQ kiêm Phụ Tá Quân Y/BTLKQ kiêm Phụ Tá KQ/Cục Quân Y từ 1972 đến 1975 Văn Phòng Quân y Trưởng KQ trực thuộc Bộ Tư Lệnh KQ là cơ Quan tham mưu có nhiều phòng, ban (sơ đồ tổ chức).

1) Phòng Kế Hoạch Tổ Chức (KHTC)


Tổ chức, trang bị các đơn vị QYKQ, nghiên cứu kế hoạch cấp cứu, tổ chức các cuộc hội thảo, lấp kế hoạch đào tạo nhân viên. Trưởng Phòng KHTC còn là Sĩ Quan Phụ Tá cho Quân Y Trưởng.

Trưởng Phòng: Y si Trung Tá Trần Bá Cơ

Trưởng Ban Điều Hành & Tiếp Liệu: Dược sĩ Đại Úy Đào Huy Hùng. Sau 1974,Dược sĩ Đại Úy Trần Kim Long thay thế.

2) Phòng Kỷ Thuật

Ấn định tiêu chuẩn y khoa nhân viên phi hành nghiên cứu và phổ biến cac phác đồ điều trị, duyệt xét các biên bản giám định y khoa, cứu xét các trường hợp đặc miễn cho nhân viên phi hành, nghiên cứu và phổ biến các biện pháp y khoa phòng ngừa và bảo vệ môi sinh trong các căn cứ KQ.

Trưởng Phòng: Y sĩ Trung Tá Phạm Gia Lữ

Trưởng Ban Y Khoa Phòng Ngừa: Dược sĩ Đại Úy Trương Gia Thoại Trưởng Ban Bảo Vệ Môi Sinh: Thiếu Tá Nguyễn Văn Đức

3) Phòng Nghiên Cứu Y Khoa

Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường không gian đối với nhân viên phi hành, đièu hành Phòng Cao Độ, huấn luyện nhân viên phi hành, ưu tiên là các hoa tiêu phản lực, về ảnh hưởng của cao độ khi bay. Các buổi huấn luyện trong phòng Cao Độ đuoc tổ chức như một chuyến bay ở nhiều cao độ khác nhau do một hoa tiêu phản lực có kinh nghiệm điều khiển.

Trưởng Phòng: Y si Thiếu Tá Trần Đình Thủy

4) Phòng Hành Chánh

Các thủ tục hành chánh, quản trị nhân viên

Trưởng Phòng: Thiếu Tá Trần Kế Vinh

Ngoài Văn Phòng Quân Y Trưởng KQ, tại trung ương còn Trung Tâm Y Khoa KQ trực thuộc BTL/KQ (chi tiết trong phụ bản TTYK2).

Uy tín của các vị chỉ huy và sự phát triểh lớn mạnh của ngành đã làm Quân Y Không Quân được các giới trong và ngoài nước chú ý, Một vị chỉ huy được mời tham chính, một vị được bổ nhiệm Cục Phó Cục Quân Y Quân Lực VNCH. Hầu hết các vị chỉ huy được mời dự các Hội Nghị Quốc Tế Y Khoa Hàng Không tại Hoa Kỳ, Phap, Do Thái, Đức, Úc Đại Lợi, Bồ Đào Nha, Liban v.. v…. Quân Y Không Quân còn tiền phong đào tạo và sử dụng một số chuyên viên chưa từng có ở một đơn vỉ y tế nào tại Việt Nam để hiện đại hóa ngành y tế.

TRUNG TÂM GIÁM ĐỊNH Y KHOA NHÂN VIÊN PHI HÀNH

Trung Tâm Giám Định Y Khoa Nhân Viên Phi Hành (TTGDY/NVPH) được thành lập năm 1956. Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Tấn Hồng đảm nhiệm chức vụ Y sĩ trưởng đầu tiên TTGĐYK/NVPH. Trong giai đoạn đầu thường dùng danh hiệu CEMPN (Centre d’expertise médicale du Personnel navigant). TTGĐYK là một đơn vị trung ương trực thuộc Bộ Tư lệnh Không Quân.

Trước năm 1956, việc khám du học và gia nhập do Quân Y KQ Pháp đảm nhiệm.

Năm 1965, TTGĐYK được xây cất một cơ sở mới tại căn cứ Tân Sơn Nhứt gồm các phòng khám bịnh và chuyên khoa được trang bị đủ y dụng và một Phòng thí nghiệm đủ tiện nghi. Cơ sở cũ tọa lạc gần gần văn phòng Phụ tá QY/BTLKQ là một căn nhà cũ chật hẹp, mục nát, không thích hợp với một cơ sở QY Trung ương.

Năm 1972, TTGĐYK được cải tổ và lấy danh hiệu là Trung Tâm Y Khoa Không Quân gồm: Khối Bịnh Viện, Khối Giám Định, Khối Tiếp Liệu, và Khối Hành Chánh.

Khối Bịnh Viện có khả năng điều hành như một bịnh viện nhỏ, có thể giải phẫu và gây tê mê tổng quát, có các chuyên viên về Nội khoa, Tai Mũi Họng, Chỉnh hình, Nhãn khoa. Y sĩ Thiếu tá Vũ Tiến Thông là Y sĩ trưởng đầu tiên của Bịnh viện Không Quân. Khối Giám Định là cơ quan thay thế TTGĐYK/NVPH với nhiệm vụ và hoạt động không thay đổi. Y sĩ Trung tá Đỗ Quang Trường làm trưởng Khối Giám Định từ năm 1973 và Dược sĩ Thiếu tá Nguyễn Văn Ngọc là Trưởng Khối Tiếp Liệu.

Chỉ Huy trưởng TTGĐYK/NVPH liên tiếp:

Y sĩ Đại Úy Nguyễn Tấn Hồng từ 1956 đến 1961
Y sĩ Thiếu tá Dương Đình Tuân từ 1961 đến 1965
Y sĩ Thiếu tá Nghiêm Xuân Húc từ 1965 đến 1972
Y sĩ Trung tá Vũ Hữu Bao từ 1972 đến 1975: CHT Trung tâm Y Khoa KQ.

Danh hiệu Y sĩ trưởng TTGĐYK/NVPH được đổi là Chỉ Huy Trưởng từ năm 1961.

Nhiệm vụ- Hoạt động

Khám gia nhập Nhân viên phi hành. Từ năm 1969, với sự bành trướng của KQVN, phụ trách khám gia nhập các tân binh KQ ngoài nhiệm vủ thường xuyên.

Khám du học các quân nhân KQ được gửi thụ huấn tại ngoại quốc.

Khám định kỳ toàn thể NVPH (6 tháng một lần để giữ qui chế phi hành).

Khám nhân viên phi hành dân sự thuộc các công ty Hàng không (Air France, Pan Am, Air Vietnam...) và các hoa tiêu dân sự muốn lái phi cơ riêng. Việc khám gia nhập hoặc định kỳ NVPH dân sự do Cơ quan Hàng không Quốc tế (Organisation Internationale Aéronautique) chỉ định. Đến năm 1972, Không Quân có 4 Giám định viên dưới danh hiệu là Medical Examiner và chữ ký được Cơ Quan Quốc Tế chấp thuận. Bốn y sĩ đã đảm nhiệm chức vụ medical examiner là: 1-Y sĩ Trung tá Trần Văn Quấc. 2- Y sĩ Trung tá Nguyễn Tấn Hồng. 3- Y sĩ Thiếu tá Dương đình Tuân. 4- Y sĩ Trung tá Nghiêm Xuân Húc.

Ấn định tiêu chuẩn sức khoẻ cho mọi ngành phi hành (hoa tiêu, quan sát, cơ khí, y tá phi hành v.v…)
Nghiên cứu và đề nghị Bộ Tư Lệnh KQ áp dụng những biện pháp để bảo vệ, tăng cường sức khoẻ NVPH và gia tăng An phi.

Kiểm soát Trung Tâm Dưỡng Sức Đà Lạt. Mỗi NVPH được dưỡng sức 2 tuần mỗi năm tại Đà Lạt.

Tổ Chức (từ 1956 đến 1972)

TTGĐYK/NVPH gồm Phòng Văn thư với nhiệm vụ chính là tu chính, cập nhật hóa hồ sơ y khoa NVPH và các phòng chuyên khoa:

Phòng Khám Tổng quát, có từ ngày thành lập TTGĐYK, thường do Y sĩ CHT phụ trách. Từ 1969, y sĩ biệt phái được tăng cường để khám tân binh gia nhập KQ.

Phòng khám Tai Mũi Họng, tương tự như Phòng Khám Tổng quát về phương diện nhân sự.

Phòng Khám Mắt phụ trách việc khám thị lực, màu sắc, trước năm 1967. Nếu cần làm réfraction, phải gửi sang Tổng Y Viện Cộng Hòa để khám. Từ năm 1967, Y sĩ Thiếu tá Phạm Gia Lữ phụ trách tất cả lãnh vực Nhãn Khoa, kể cả làm réfraction. Từ năm 1973, Y sĩ Thiếu tá Nguyễn Gia Tiến thay thế BS Lữ phụ trách Phòng Mắt.

Phòng Điện Tuyến do Y sĩ Thiếu tá Dương Đình Tuân sáng lập và phụ trách. Sau 1965, Y sĩ Thiếu tá Đào Hữu Lân phụ trách.

Phòng Thí Nghiệm do Dược sĩ Đại úy Dương Văn Duy sáng lập và điều khiển. Sau đó các Dược sĩ Trung Úy Hoàng Đình Mẫn, Huỳnh Trúc Lâm, Nguyễn Văn Ngọc, và Dược sĩ Đại úy Trần Kim Long liên tiếp phụ trách phòng thí nghiệm.

Phòng Nha Khoa đặc trách về khám và điều trị các trường hợp Nha khoa cho NVPH. Nha sĩ Thiếu tá Quản Định đảm nhiệm chức vụ Trưởng phòng. Năm 1969, Nha sĩ Thiếu tá Quản Định được thuyên chuyển về trường Đại Học Nha Khoa trong Ban Giảng Huấn. Nha sĩ Đại Úy Từ Hùng Bình về thay thế.

Cuối tháng 1 năm 1975, TTYKKQ nhận lệnh cua BTLKQ tạm đình chỉ việc các NVPH tại các đơn vị về khám định kỳ tại TTYKKQ vì tình hình chiến sự.

Mọi dịch vụ Y khoa khác do Tổng Y Viện Cộng Hòa yểm trợ. Từ năm 1972, một số dịch vụ do Bịnh viện Không Quân đảm nhiệm.

BỆNH VIỆN KHÔNG QUÂN

Bệnh Viện Không Quân thành lập từ cuối năm 1968. Y sĩ Đại Úy Vũ Tiến Thông là Y sĩ trưởng từ 1968 đến 1975 (ngoại trừ thời gian BS Thông du học từ tháng 12-1969 đến tháng 5-1970, Y sĩ Đại úy Phạm Gia Lữ thay thế trong chức vụ Y sĩ trưởng).

Giai đoạn 1:

Cơ sở đầu tiên là khu nhà tiền chế đặt trên nền xi măng, nhỏ hẹp và thiếu tiện nghi, tọa lạc phía sau bệnh xá KĐ 33. Vì thiếu y sĩ và cơ sở không trang bị đủ phương tiện cần thiết nên bịnh viện chỉ đảm trách khám ngoại chẩn cho quân nhân và gia đình thuộc BTL KQ và các đơn vị biệt lập đồn trú tại căn cứ TSN, kể cả các đơn vị được tăng phái. Quân nhân và gia đìnt thuộc KĐ 33 được khám tại BX KĐ 33.

Giai đoạn 2: (1969-1972)

BV KQ điều hành như một quân y viện nhỏ. Cơ sở đặt tại khu nhà do Không lực Hoa Kỳ xây cất giữa BX KĐ 33 và Văn phòng Phụ tá QY/BTLKQ, có khả năng chứa một trại bịnh kê đủ 33 giường.

Tháng 7-1969, BV KQ được bổ xung 2 y sĩ giải phẫu: Y sĩ Đại úy Bùi Xuân Mẫn và Y sĩ Đại úy Phạm Nhạc vừa tốt nghiệp khóa 3 giải phẫu tổng quát tại Tổng Y viện Cộng Hòa.

Tháng 7-1969, Y sĩ Đại úy Vũ Tiến Thông được thăng cấp Thiếu tá.

Tháng 8-1969, Y sĩ Đại úy Đặng Đông Mỹ tốt nghiệp khóa Gay Mê tổ chức tại TYV Cộng Hòa, được bổ xung quân số BV KQ, Phòng giải phẫu được thành lập với sự gia tăng chuyên viên, có khả năng thực hiện giải phẫu các trường hợp cần gay mê tổng quát. Số y sĩ gia tăng đã giúp Y sĩ Thiếu tá Vũ Tiến Thông giải quyết việc điều trị nội, ngoại khoa, nhập, xuất, cũng như chuyển bịnh nhân.

Các thương tích nhỏ được giữ lại điều trị tại BVKQ cũng như một số bịnh nội thương.

Ngoài nhiệm vụ điều trị, BVKQ đảm trách thêm việc khám gia nhập:

- ứng viên gia nhập phi hành từ Trung Tâm Giám Định Y Khoa gửi tới.

- ứng viên kỹ thuật, an ninh, phòng thủ, từ Trung Tâm Nhập ngũ gửi tới.

Tháng 5-1970, Y sĩ Thiếu tá Vũ Tiến Thông tốt nghiệp y sĩ phi hành.

Gia đoạn 3: (1972-1975)

BVKQ thuộc Khối Điều Trị Trung Tâm Y Khoa KQ (chi tiết xem phụ bản TTYK 2).

a) Cơ sở:


Năm 1972, TTYKKQ tiếp thu Bịnh Viện 377 của KQ Hoa Kỳ tại TSN. Đó là một BV 200 giường gồm có 4 trại bệnh, mỗi trại bệnh 50 giường, có 2 phòng giải phẫu lớn, một phòng hồi sức, một phòng tiểu giải phẫu. BV gồm nhiều trailers, trang bị đầy đủ tiện nghi, tọa lạc tại căn cứ TSN, sát con đường sang trại Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám. BV có 5 dẫy trailers:

1. Dẫy trailers đầu: phía trái là Khu Nha Khoa và Phòng Thí Nghiệm. Phía mặt là Phòng Ngoại chẩn & Cấp cứu, Phòng Đợi, Văn Phòng Y tá, Phòng y sĩ trực, Phòng chứa X ray Portable.

2. Dẫy trailers thứ nhì: Cánh trái: khu Hành chánh, Tiếp Liệu. Giữa: Văn phòng Chỉ Huy Trưởng & Chỉ Huy Phó. Cánh mặt: Khu Giám Định NVPH & Khu Điện Tuyến.

3. Dẫy trailers thứ 3: Cánh trái: Khu Giải Phẫu-Tê mê-Hậu giải phẫu. Cánh phải: Nhà Bếp trang bị đầy đủ dụng cụ. Câu lạc bộ thường dùng làm phòng họp.

4. Dẫy trailers thứ 4: Cánh trái: Trại bịnh ngoại thương & Phòng điều trị. Cánh phải: Văn phòng sĩ quan Quản lý BV.

5. Dẫy trailers thứ 5: Cánh trái: Trại bịnh Nội Thương. Phòng Y sĩ trực. Cáhh phải: Kho. Văn phòng điều hành xe Hồng Thập Tự.

Ngoài ra cơ sở BV KQ còn có thêm:

- một hangar dùng làm kho tiếp liệu y dược & dụng cụ văn phòng.

- một trailer được thiết kế đày đủ để điều trị sĩ quan cao cấp cần nhập viện.

Điều hành:

BVKQ đã kiện toàn về tổ chức và điều hành sau khi đã tiếp nhận cơ sở rộng rãi, đầy đủ tiện nghi, đồng thời được bổ xung đủ nhân viên để điều hành như một quân y viện nhỏ, đủ khả năng kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu của KQ.

- Khu Điện tuyến, trước là phòng Điện tuyến thuộc TTGĐYK, nay được chuyển sang BVKQ. Phòng Điện đồ được thành lập, một thành phần cơ hữu của Khối Điện tuyến. Y sĩ Thiếu tá Đào Hữu Lân đảm trách Khu Điện tuyến kiêm trưởng phòng Điện đồ. Ngoài công tác chụp hình phổi, Khu Điện tuyến còn thực hiện việc chụp hình bộ tiêu hóa, bộ tiết niễu, chụp hình xương v.v... cho thương bệnh binh và gia đình, nếu có yêu cầu của y sĩ điều trị KQ.

- Phòng Thí Nghiệm được chuyển từ TTGĐYK sang BVKQ gia tăng hoạt động để giúp y sĩ định bệnh và điều trị một cách hữu hiệu. Dược sĩ Đại úy Lý Văn Quý đảm nhiệm chức vị Trưởng phòng Thí Nghiệm, phụ tá là Dược sĩ Đại úy Bửu Kim và Dược sĩ Trung úy Tạ Văn Tốt.

- Khu Nha Khoa- Nha sĩ Thiếu Tá Trần Sĩ Lâm, Trưởng Khối Nha Khoa, đặc trách về giải phẫu Khẩu Xoang (Oral Surgery) và khám NVPH, Nha sĩ Thiếu Tá Từ Hùng Bình phụ trách làm răng giả, Nha sĩ Đại Úy Phó Quốc Hải, Nha sĩ Trung Úy TÔn Thất Tường, nha sĩ điều trị.

- Khu Nhãn Khoa đặc trách về khám mắt và điều trị các bịnh về Nhãn Khoa, do Y sĩ Thiếu Tá Phạm Gia Lữ đảm trách tới năm 1973. Sau đó, Y sĩ Thiếu tá Nguyễn Gia Tiến thay thế.

- Khu Tai Mũi Họng do Y sĩ Thiếu tá Lương Duyên Nam phụ trách.

- Khu Nội Khoa & Phòng Ngoại Chẩn do Y sĩ Đại Úy Đoàn Lân, Y sĩ Đại úy Nguyễn Dương đảm trách. Ngoài ra quân số được tăng cường với việc thuyên chuyển va biet phai các y sĩ tới KQ: Y sỉ Thiếu tá Vũ Văn Trất, Y sĩ Thiếu tá Đặng Văn Mạch, Y sĩ Thiếu tá Nguyễn Văn Chất.

- Khu Giải Phẫu & Tê Mê do các Y sĩ Giải phẫu: Y sĩ Thiếu tá Vũ Tiến Thông, Y si Thieu Ta Bùi Xuân Mẫn, Y sĩ Thieu Ta Dang Dong My, Đại úy Phạm Nhạc đảm nhiệm. Phòng Tê Mê do Y sĩ Thieu Ta Đặng Đông Mỹ đảm trách.

- Khu Thần Kinh Tâm Trí được thành lập năm 1974 sau khi Y sĩ Đại úy Nguyễn Dương tốt nghiệp khóa Thần Kinh Tâm trí tại TYV Cộng Hòa.


Tháng 7-1973 Y sĩ Thiếu Tá Vũ Tiến Thông được thăng cấp Trung tá. Ngoài những dịch vụ thường xuyên của một Quân Y viện, BVKQ là nơi huấn luyện Y tá. Một số Nữ Điều dưỡng sau khi tốt nghiệp tại Hoa Kỳ đã thực tập tại BVKQ.

Để giải quyết tình trạng miễn dịch hoặc lưu ngũ cho một số quân nhân, một Hội Đồng Y Khoa được thành lập tại BVKQ. Chủ tịch là Y sĩ Trung Tá Lương Duyên Nam do Cục Quân Y chỉ định.

PHÒNG CAO ĐỘ (ALTITUDE CHAMBER)

PHÒNG NGHIÊN CỨU Y KHOA:

Phòng Nghiên Cứu Y Khoa có nhiệm vụ nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường không gian đối với nhân viên phi hành, ĐIỀU HÀNH PHÒNG CAO ĐỘ, huấn luyện nhân viên phi hành, ưu tiên là các hoa tiêu phản lực, về ảnh hưởng của cao độ khi bay.

Trưởng Phòng kiêm Trưởng Phòng Cao Độ: Y sĩ T/Tá Trần đình Thủy, Y sĩ Phi Hành có chỉ số Phòng Cao Độ.

Phụ tá Trưởng Phòng Cao Độ: T/tá Phi Công F5 Hoàng Văn Cường.

Phòng Cao Độ có tất cả12 chuyên viên đều được huấn luyện tại Hoa Kỳ.

Phòng Cao Độ được thành lập từ năm 1971. Lần đầu tiên KQVN có Phòng Cao Độ để huấn luyện các nhân viên phi hành. Đây là một phòng kín hình ống (Cylinder) mang từ Okinawa về căn cứ KQ TSN năm 1971 và phòng này được thiết trí để thay đổi áp suất không khí tuỳ theo ý muốn. Mục đích chính của Phòng Cao Độ là để huấn luyện nhân viên phi hành làm quen và đáp ứng kịp thời với sự thay đổi áp suất không khí trong các phi vụ.

Nhân viên phi hành được huấn luyện trong Phòng Cao Độ hàng năm.

Trước khi KQVN có Phòng Cao Độ các nhân viên phi hành đã được huấn luyện tại Okinawa.

ĐƠN VỊ QUÂN Y TẠI CĂN CỨ KHÔNG QUÂN

A. Bệnh Xá Không Quân.

Các Bệnh xá tại Căn cứ KQ khi được KQVN tiếp thu đều ở trong tình trạng yếu kém, cơ sở chật hẹp (ngoại trừ Bịnh xá Biên Hòa và Nha Trang), dụng cụ y khoa thiếu thốn, nhân viên y tá thiếu huấn luyện. Trong giai đoạn đầu, việc trang bị và tiếp liệu y dược gặp nhiều khó khăn vì bịnh xá yểm trợ quânsố quá ít, thêm vào đó bảng cấp số về trang bị cũng như tiếp liệu chưa được chấp thuận nên cơ quan Quân y địa phương không yểm trợ đúng mức. Nhưng với sự cố gắng liên tục của mọi giới hữu trách QYKQ, bịnh xá đã thành hình và đã được trang bị về y dụng, tiếp liệu y dược cũng như được bổ xung nhân viên y tá để thi hành nhiệm vụ giao phó.

Nhiệm Vụ - Hoạt Động:

Đảm trách việc khám bịnh và điều trị toàn thể quân nhân và gia đình thuộc Căn cứ.

Đặc trách khám ngoại chẩn và phối hợp với Quân Y Viện địa phương dành cho binh chủng KQ để điều trị mọi trường hợp nặng hoặc cần nhập viện.

Túc trực cứu cấp và tản thương các thương bịnh binh.

Y Khoa Phòng Ngừa:
- Chích ngừa các bịnh truyền nhiễm, phát thuốc chloroquine uống ngừa bịnh sốt rét, phun DDT trừ ruồi muỗi.

- Khuyến cáo Câu Lạc Bộ trong Căn Cứ về vấn đề vệ sinh. Khám xét các quán ăn.

- Kiểm soát cơ xưởng để tránh tình trạng ô nhiễm và tai nạn lao động.

- Tham gia chương trình Dân Sự Vụ: hát thuốc, khám bệnh, chích ngừa bịnh truyền nhiễm cho dân chúng cư ngụ vùng phụ cận phi trường.

Khi Không Đoàn Chiến Thuật thành lập, Bệnh Xá là thành phần cơ hữu của Không Đoàn, và thống thuộc Liên Đoàn Yểm Cứ. Thông thường, mỗi bịnh xá có một Y sĩ phi hành làm Y Sĩ Trưởng Không Đoàn, 1 hay 2 y sĩ điều trị, 1 Nha sĩ, 1 hay 2 Dược sĩ, một số y tá phi hành phụ trách về tản thương. Tuy Bịnh Xá là thành phần cơ hữu của Không Đoàn, nhưng về mặt kỹ thuật Y khoa, Bện xá nhận chỉ thị của Quân Y trưởng KQ.

B. Khối Quân Y Hàng Không

Khối Quân Y Hàng Không được thành lập để đáp ứng nhu cầu của sự bành trướng của KQ, đặc biệt với sự thành lập các Sư Đoàn KQ. Khối Quân Y Hàng Không gồm 2 phần: Phân Khối QY Phi hành, và Phân Khối QY Không Phi hành (Bịnh Xá trực thuộc Phân Khối QY Không Phi hành).

Phân Khối QY Phi Hành:

- Đặc trách khám bịnh, điều trị Nhân viên phi hành và gia đình, do 1 hay 2 y sĩ phi hành phụ trách.

- Khám định kỳ 6 tháng cho NVPH tại địa phương.

- Phối hợp với các phi đội Trực thăng tản thương để di tản thương binh (y sĩ phi hành phụ trách) và di tản bệnh binh (y tá phi hành phụ trách).

- Giải quyết các vấn đề liên quan đến Y khoa tại Phi đoàn.

Phân Khối QY Không phi hành (Bệnh xá):

- Đặc trách các vấn đề y khoa của nhân viên không phi hành và gia đình do 1 hay 2 y sĩ điều trị phụ trách.

Nhiệm vụ và hoạt động ghi trong phụ bản ĐVQY-A

C. Nhiệm vụ Phụ Tá Quân Y Sư Đoàn KQ:

- Phụ Tá Quân Y Sư Đoàn là sĩ quan tham mưu của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn về các vấn đề Y Khoa.

- Họp tham mưu với Sư Đoàn để am hiểu các vấn đề của Sư Đoàn.

- Họp QY mỗi tháng một lần tại Tân Sơn Nhứt để:

1. Trình các khó khăn tại địa phương để xin giải quyết.

2. Nhận chỉ thị của Quân Trưởng KQ để phổ biến và thi hành tại các đơn vị QYKQ địa phương.

- Lập chương trình Y khoa phòng ngừa cho các Bịnh xá phụ thuộc:

- Ấn định lịch trình chích ngừa định kỳ cho Căn Cứ.

- Kiểm tra vệ sinh doanh trại, vệ sinh thực phẩm, nước uống, thanh tra Câu Lạc Bộ (phối hợp với Bịnh Xá).

- Đặt kế hoạch huấn luyện, đào tạo y tá các ngành: phi hành, nha tá, thí nghiệm, tiếp liệu y dược, v.v...

- Thanh tra các Khối QY và Bện xá trực thuộc.

- Liên lạc với Ty Y Tế và Quân Y Viện địa phương để giải quyết mọi vấn đề Y Khoa

QUÂN Y KHÔNG QUÂN BIÊN HÒA

1956: Bệnh Xá Căn cứ KQ Biên Hòa được quân đội Pháp giao lại cho Không Quân VN. Y sĩ Đại úy Bạch Văn Tốt là y sĩ trưởng đầu tiên, được Thiếu tá Huỳnh Hữu Hiền đưa tới Bịnh Xá giới thiệu với một số ít nhân viên y tá. Cơ sở y tế khá lớn nhưng rất yếu về dụng cụ y khoa cũng như về nhân viên y tá. Y sĩ Đại úy Tốt đã một mình phải:

- Đảm nhiệm việc huấn luyện nhân viên y tá.

- Đảm bảo sức khoẻ cho tất cả binh sĩ bộ binh canh phòng và gia đình.

- Phụ trách trông nom sức khỏe cho Nhân viên Phi hành và gia đình.

- Túc trực tại sân bay với các phương tiện cấp cứu mỗi khi có phi vụ huấn luyện hay tác chiến bay phi cơ Bearcat.

1957: Y sĩ Bạch Văn Tốt thuyên chuyển về Căn cứ Tân Sơn Nhất làm Y sĩ Phi hành. Y sĩ Đại úy Nguyễn Văn Nho thay thế trong chức vụ Y sĩ trưởng Bệnh xá.

1958: Y sĩ Đại úy Nguyễn Văn Nho biệt phái sang Bộ Y Tế. Y sĩ Trung úy Nghiêm Xuân Húc thay thế trong chức vụ Y sĩ trưởng Bệnh xá. Bệnh xá có 2 phòng khám bệnh, 1 phòng điều trị, 1 phòng tiểu giải phẫu, 2 phòng làm trại bịnh độ 20 giường. Dược phòng và Phòng thí nghiệm do Nữ trợ tá phụ trách. Nhân viên y tá: 10-12 người. Việc túc trực tại sân bay tiếp tục thi hành mỗi khi có phi vụ dùng Bearcat.

Chỉ Huy Trưởng Căn cứ 2 Trợ lực KQ: Thiếu tá Lê Trung Trực.

1959: Y sĩ Trung úy Nghiêm Xuân Húc thuyên chuyển về căn cứ TSN làm y sĩ phi hành. Y sĩ Đại úy Đỗ Nhự thay thế trong chức vụ y sĩ trưởng bịnh xá. Y sĩ Trung úy Vương Tú Toàn thuyên chuyển về CC2TLKQ (tháng 8-59) làm y sĩ điều trị.

1963: Y sĩ Trung Úy Phạm Gia Lữ biệt phái về Căn cứ Biên Hòa thay thế Y sĩ Đại úy Đỗ Nhự thụ huấn khóa giải phẫu binh đoàn tại TYV Cộng Hòa. Y sĩ Trung Úy Vương Tú Toàn làm y sĩ trưởng Bệnh Xá. Nha sĩ Đại úy Quan Định phụ trách Phòng Nha Khoa.

1965: Bệnh xá Căn cứ 2 Trợ lực KQ được đổi tên là BX Căn cứ 23 KQ. Y sĩ Trung úy Vương Tú Toàn được thăng cấp Y sĩ Đại úy (tháng 4.65)

1966: Không Đoàn 23 được thành lập, Y sĩ Đại úy Vũ Hoạt được bổ nhiệm làm Y sĩ trưởng KĐ 23. Tháng 6- 1966, Y sĩ Đại Úy Vương Tú Toàn được biệt phái bán thời gian sang Bịnh Viện Phạm Hữu Trí ở Biên Hòa và giải ngũ ngày 31.12. 66.

Y sĩ Đại úy Đỗ Nhự thuyên chuyển về BX KĐ 33 Tân Sơn Nhứt.

1967: Y sĩ Đại Úy Nguyễn Gia Tiến thuyên chuyển về BX KĐ 23. BX có 2 y sĩ điều trị: Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Gia Tiến, Y Sĩ Đại Úy Trịnh Cường, và 1 Nha sĩ: Đại Úy Lê Minh Bạch.


1968: Y sĩ Đại úy Nguyễn Bửu thay thế Y sĩ Đại úy Vũ Hoạt trong chức vụ YST/BX. Y sĩ Đại úy Vũ Hoạt thuyên chuyển về TTGĐYK.

1969: Y sĩ Đại úy Nguyễn Gia Tiến thuyên chuyển về Không Đoàn 33 tại Tân Sơn Nhứt.

1970: Y sĩ Thiếu tá Nguyễn Bửu là Phụ tá QY Sư Đoàn 3 KQ đầu tiên. Y sĩ Thiếu tá Phạm Quý Điểu làm Y sĩ Trưởng Khối QY Hàng không. Y sĩ Thiếu tá Trịnh Cường, Y sĩ Thiếu tá Dương Hồng Huy là Y sĩ điều trị. Dược sĩ Đại úy Lâm Kim Cương, Dược sĩ Đại úy Nguyễn Công Hoan phụ trách Kho Y dược và Phòng thí nghiệm.

Ngoài BX cũ, Khối QY Hàng không tiếp thu một số trailers thuộc BX KQ Hoa Kỳ để lại.

1972: Y sĩ Trung tá Phạm Quý Điểu giải ngũ, Y sĩ Trung tá Trịnh Cường xử lý thường vụ chức vụ Trưởng Khối QY Hàng không cho tới tháng 4-1975.

Chú thích:

- Nhiệm vụ và hoạt động của BX: xem phụ bản ĐVQY-A

- Tổ chức-Nhiệm vụ- Hoạt động của Khối QY Hàng không: xem phụ bản ĐVQY-B

- Nhiệm vụ Phụ tá QY Sư đoàn: xem phụ bản ĐVQY-C

QUÂN Y KHÔNG QUÂN TẠI CẦN THƠ - SÓC TRĂNG

1966: Y sĩ Đại úy Vũ Hữu Bảo sau khi tốt nghiệp y sĩ phi hành năm 1965, được thuyên chuyển về Căn Cứ 4 Bình Thủy, giữ chức vụ Y sĩ trưởng Không Đoàn 74. Phụ tá là Y sĩ Trung Uý Nguyễn Thế Cường.

1968: Y sĩ Đại Úy Phạm Qúy Diệu thay thế Y sĩ Đại Úy Vũ Hữu Bảo được thuyên chuyển về KD 33 (TSN)

1969: Y sĩ Đại Úy Phạm Qúy Diệu thuyên chuyển về Bệnh xá KD 23 (Biên Hòa)

Y sĩ Trung Úy Nguyễn Lang Uyên đổi về BXKD 74 làm y sĩ điều trị.

1970: Tháng 4-70, thành lập Sư Đoàn 4 KQ. Phụ Tá Quân Y / Sư Đoàn 4 là Y sĩ Đại Úy Nguyễn Thế Cường. Khối QY Hàng Không trực thuộc Không Đoàn Yểm Cụ. Y sĩ Đại Úy Nguyễn Ngọc Châu làm Trưởng Khối QY HK.

Y sĩ Trung úy Nguyễn Lang Uyên thăng cấp Y sĩ Đại Úy, đảm nhiệm chức vụ Y Sĩ Trưởng Bệnh Xá.

1970: Thành lập Khối Quân Y Hàng Không và Bệnh Xá Sóc Trăng. KQYHK trực thuộc Không Đoàn Yểm Cụ. Y sĩ Thiếu Tá Nguyễn Gia Thọ là Trưởng Khối.

1971: Y sĩ Thiếu Tá Nguyễn Thế Cường thuyên chuyển về KD33 (TSN). Y sĩ Thiếu Tá Đỗ Quang Trường thay thế trong chức vụ Phụ Tá Quân Y Sư Đoàn 4. Y sĩ Đại Úy Nguyễn Ngọc Châu biệt phái về Bộ Y Tế. Y sĩ Đại Úy Lê Quang Thục thay thế phụ trách Khối QY Hàng Không.

1972: Bệnh xá và Khối QY Sóc Trăng sát nhập vào KQYHK Cần Thơ.

Y sĩ Đại Úy Nguyễn Lang Uyên thuyên chuyển về Khối QY/SD5 (TSN)

1973: Y sĩ Thiếu Tá Đỗ Quang Trường thuyên chuyển về Trung Tâm Y Khoa KQ.

Y sĩ Thiếu Tá Trương Văn Phước thay thế trong chức vụ Phụ Tá QY/SD4.

1974: Y sĩ Đại Úy Ngô Thế Khanh thuyên chuyển tới Khối QY Hàng Không Cần Thơ làm Trưởng Phân Khối Phi Hành.

(Xem tiếp phần 2)
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2010
imagesCALACZLY