Site map
Tìm Kiếm Bài Đã Đăng
Đại úy Ngữ và Trung úy Kenneth Crabtree

Đại úy Ngữ và Trung úy Kenneth Crabtree


Tham dự Diễn Đàn
M¶t Dân T¶c NhiŠu ñau ThÜÖng (CHÜÖng 3) ñ­C: Tình Yêu Cûa M¶t Phóng Viên Cho
Nguyên tác tiếng Anh
Tác giả: Uwe Siemon-Netto
Dịch thuật: Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền


Chương 3

Để tỏ lòng tôn kính đến Đại úy Ngữ

Tôi chỉ gặp được ngài Robert G.K Thompson có một lần ngắn ngủi trong những năm tôi sống ở Việt Nam.Chuyện này xảy ra vài tuần lễ trước khi Phái bộ Cố Vấn Anh Quốc do ông cầm đầu hết nhiệm vụ vào năm 1965 và chuyên viên nổi tiếng nhất thế giới này về chiến tranh chống du kích phải rời bỏ Sài Gòn. Một phóng viên người Anh đã giới thiệu tôi với ông. Tôi rất thắc mắc về niềm tin vững chắc của ngài Robert khi ông cho rằng hỏa lực hùng hậu, ưu thế về nhân sự và trang thiết bị tối tân hoàn toàn không hiệu quả bằng lòng quyết tâm tiếp đón và đánh bại đối phương bằng chính những điều kiện của họ.

Chiến lược này đã được người Anh áp dụng thành công tại Mã Lai Á nhưng lại không thuyết phục được chính quyền Kennedy cũng như Johnson tại Washington. Theo tờ Times của London, ngài Robert nghĩ rằng các cán bộ nằm vùng quan trọng hơn là những du kích quân trong rừng rậm và phải là mục tiêu ưu tiên để tấn công trước. Các lực lượng cảnh sát và tổ chức tình báo hữu hiệu (hoặc yếu kém) là những yếu tố quyết định cho sự thành bại. Các binh sĩ, nhân viên cảnh sát và nhân viên chính phủ phải hoạt động trong phạm vi luật pháp. Ngoài ra, các viện trợ để phát triển chỉ có hiệu quả nếu xây dựng được một nông thôn lớn mạnh với những người có khả năng điều hành giỏi, thay vì bị hoang phí đi trong những công trình màu mè chắc chắn sẽ sụp đổ một khi nguồn tài trợ để duy trì chúng từ bên ngoài bị cạn đi.

Khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc vào năm 1975, ngài Robert Thompson tuyên bố: "Người Mỹ không bao giờ có thể nhận thức được Việt Nam trong bối cảnh Mã Lai Á vì họ không có lòng nhẫn nại cho loại chiến tranh như vậy."

Đã có quá nhiều người viết về sự khác biệt giữa những đề nghị của Thompson và chiến lược quân sự vội vã của Hoa Kỳ nhằm nhanh chóng đi tìm kết quả rồi. Đó không phải là mục đích của cuốn sách này cũng như không thuộc thẩm quyền của tôi để xét xử những vấn đề có tính cách chiến lược như vậy.  Đây chỉ là câu chuyện của một phóng viên luôn khát khao tìm hiểu và đã có cơ may được giải đáp trí tò mò: tôi muốn biết chiến lược của ngài Robert Thompson đã thành công như thế nào sau bốn năm liên tiếp làm cố vấn cho chính quyền Sài Gòn. Do đó, tôi chụp ngay cơ hội này.

Tôi hỏi ngài Robert rằng ông có thể chỉ cho tôi một nơi nào mà khái niệm chiến lược "tát nước bắt cá" của ông đã thành công không? Nói cách khác, một vùng nào đã được ổn định sau các cuộc hành quân, ngăn ngừa kẻ địch không trở lại được, và chính quyền đã giành lại được lòng dân như là một hệ quả tất yếu?

Một thành viên trong đội ngũ nhân sự của ông đã đề nghị tôi hãy ghé thăm địa danh Long Khốt gần biên giới Cambodia. Long Khốt là một làng bụi bậm của chi khu Tuyên Bình thuộc tỉnh Kiến Tường và chỉ huy trưởng là Đại úy Ngữ. Tôi đã thích ngay người sĩ quan đầy cá tính này, một người từng trải, dũng cảm và dẻo dai nhưng lại có một tính tình khôi hài rất thực tế. Ông ta cũng là một người đầy mưu lược về quân sự và hay thích mang tôi ra làm trò đùa với những con thú kỳ lạ của ông.

Tuy nhiên, đến được chỗ của Đại úy Ngữ không phải dễ mặc dù Long Khốt chỉ cách Sài Gòn có 150 dặm về hướng Tây. Đường bộ đến Long Khốt khá nguy hiểm và hàng ngày có quá nhiều những vụ du kích tấn công dọc theo con lộ chạy quanh co đến đó. Với tư cách một biên tập viên chính thức tôi được phép bay bằng máy bay quân sự tới hầu hết bất cứ chỗ nào trong miền Nam Việt Nam miễn là còn chỗ. Ngoài ra các phóng viên thường được mang cấp bậc quân sự đồng hóa với cấp Thiếu tá hoặc Trung tá nên có khá nhiều ưu tiên. Vả lại một chỗ ngồi trên máy bay dạo đó chưa đến nỗi khó khăn như vài tháng sau này khi chiến sự lan rộng hơn. Vào đầu năm 1965 khi tôi đi thăm Đại úy Ngữ mới chỉ có 27 ngàn lính Mỹ đồn trú tại miền Nam Việt Nam và trong số đó gần 4 ngàn là cố vấn, phi công, phi hành đoàn trực thăng và nhân sự tiếp vận. Số còn lại thì thì sống thoải mái ở Sài Gòn, được mệnh danh là "Hòn Ngọc Viễn Đông" hoặc "Ba-Lê của phương Đông."

Tương tự, lực lượng báo chí Sài Gòn khi đó cũng còn khá mỏng. Vì vậy, quân đội Mỹ đối xử với chúng tôi rất hào phóng, đưa đón chúng tôi cẩn thận bằng xe cơ quan từ khách sạn đến phi trường Tân Sơn Nhất. Tuy nhiên đến đó thì diễm phúc thường chấm dứt vì sự rườm rà của thủ tục hành chánh quân sự được tiếp nối theo, đúng như phương châm "Nhanh lên và chờ đó."

Vào 3 giờ sáng, một chiếc xe hơi 4 cửa có gắn máy lạnh của Không Lực Hoa Kỳ (USAF) đến đón tôi trước cửa khách sạn Majestic sang trọng, nơi tôi sống trong những tuần lễ đầu tiên tại Việt Nam để đưa tôi đến trạm máy bay quân sự hai mươi phút sau. Tuy nhiên, trong suốt 11 tiếng đồng hồ sau đó, tôi đã phải ngồi chờ dưới sàn để đón chuyến bay 7 giờ rưỡi sáng bị hoãn đi hoãn lại nhiều lần. Nóng quá, tôi đổ tháo mồ hôi và đói vã cả người. Có ai đó đưa cho tôi một khẩu phần chiến đấu, thường được gọi là "C Rats," và tôi ăn hết một hộp xúc xích nấu đậu, một món chẳng thích hợp chút nào trong vùng nhiệt đới.

Cuối cùng thì chiếc máy bay tôi đi cũng xuất hiện. Bay đến Mỹ Tho trong vùng đồng bằng sông Cửu Long chỉ mất có 20 phút đồng hồ, nhưng cũng đủ để gây trong tôi sự ác cảm với chiếc C-123 vận tải cổ lỗ sĩ đang là phương tiện di chuyển chính của Không Lực Hoa Kỳ trong thời gian đầu của cuộc chiến. Chiếc máy bay này lúc nào cũng run lên bần bật, lạng qua lạng lại và thực sự là một phòng tra tấn trên không vô cùng hiệu quả với hai cái động cơ điếc cả tai. Vì vậy khi đến Mỹ Tho, tôi thật sung sướng được chuyển qua một chiếc Caribou, nhẹ, êm và nhỏ hơn của Quân Đội Hoa Kỳ do Úc sản xuất với động cơ phản lực cánh quạt. Tuy nhiên nó chỉ đưa tôi đến được Mộc Hóa mà không xa hơn nữa. Trời chiều đã đổ xuống. Thật là liều lĩnh nếu phải đón một đoàn xe quân sự nhỏ để bắt đầu một chuyến dài 3 tiếng đồng hồ đến Tuyên Bình bằng đường bộ. Đại úy Ngữ phải chờ thôi.

Hóa ra lại may mắn cho tôi khi buổi tối  bị mắc kẹt tại Mộc Hóa. Tại đây có toán B-41 thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đang đồn trú. Lực Lượng Đặc Biệt, hay "Mũ Nồi Xanh" đóng một vai trò rất quan trọng trong nỗ lực chống du kích mà tôi đang nghiên cứu, bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với ngài Robert Thompson.  Các nhân viên tình báo Pháp cùng với các nhóm tình báo Mỹ, Úc và Việt Nam, thường xuyên gặp gỡ nhau tại "hang động của điệp viên," nơi mà giới báo chí chúng tôi đặt tên cho cái quán rượu Cheval Blanc trong một con hẻm chật hẹp tại Sài Gòn, đã hết lời ca tụng các chiến sĩ Mũ Nồi Xanh này: "3 Mũ Nồi Xanh còn giá trị hơn cả một đại đội bộ binh," họ thường nói như vậy.

Những tay tình báo Pháp này so sánh họ giống như lính nhẩy dù trong đoàn quân Lê Dương Pháp qua tính cách chuyên nghiệp, trang thiết bị và thành phần "quốc tế" của họ. Họ cũng đội mũ nồi xanh vậy. Hơn 35 ngàn lính Lê Dương, trong đó có 70 phần trăm là người Đức đã chiến đấu trong cuộc chiến Đông Dương vừa qua; đất Việt đã đẫm máu của 10.483 người lính đánh thuê này, trong đó một nửa là người Đức, thường là cựu chiến binh của quân đội Đức Wehrmacht trong Thế Chiến thứ 2.

Xét trên nhiều khía cạnh, Lực Lượng Đặc Biệt tại Mộc Hóa khá giống lực lượng tinh nhuệ Pháp nói trên. Họ cũng là lính nhẩy dù và cũng đại diện cho tầng lớp tinh hoa của lính ngoại quốc phục vụ cho Hoa Kỳ. Đầu tiên là Đại úy Sully H. de Fontaine, một người quý tộc gốc Bỉ. Anh ta đã trở thành một trong những sĩ quan chống du kích nổi tiếng nhất của chiến trường này. Sau đó có hai người gốc Đức là các thượng sĩ Hans Koch và Walter Rübel. Sau này trong cuộc chiến, tôi gặp lại nhiều đồng hương tương tự trong các sắc phục quân đội Hoa Kỳ, Úc và Tân Tây Lan. Một số trong họ là lính bộ binh, hạ sĩ quan, chỉ huy trưởng tiểu đoàn, hoặc là phi công trực thăng và chiến đấu cơ. Khi tôi viết về toán B-41 trên tờ nhật báo Đức Die Welt, tôi đã so sánh họ như một tổ chức Liên Hiệp Quốc thu nhỏ. Ngoài những người gốc Âu Châu, tôi đã gặp cả người Phi và Mỹ Châu La Tinh, người gốc Cambodia và đặc biệt là người bộ lạc Nùng. Họ là một dân tộc thiểu số thượng du Bắc Việt nhưng có nguồn gốc từ Trung Hoa và nổi tiếng về khả năng truy lùng Việt Cộng một cách hung hãn bất kỳ nơi nào, đặc biệt là trong rừng rậm.

Buổi tối trong trại Lực Lượng Đặc Biệt đã mang lại cho tôi một nguồn tin tức hết sức phong phú. Sau một vài chầu rượu tôi đã được nghe kể lần đầu tiên các chi tiết về một trong những công tác nguy hiểm và hiệu quả nhất mà sau này biến thành chiến dịch Phụng Hoàng đầy tranh cãi. Đặc trưng là những kỹ thuật ám sát các cán bộ Cộng sản trong lúc họ đang ngủ trong các ổ trú ẩn ban đêm. Khi nắm được tin tình báo cung cấp bởi người địa phương, một yếu tố quyết định trong nỗ lực chống du kích, từng đơn vị nhỏ LLĐB không quá một chục mạng sẽ lẩn vào trong rừng cả vài tuần lễ mỗi lần. Trang bị với một vũ khí gồm một sợi kẽm gắn vào hai đầu tay cầm bằng gỗ, họ lẻn vào lều của cán bộ Việt cộng chỉ huy, vòng sợi dây kẽm quanh cổ nạn nhân đang ngủ, giựt mạnh và thế là cắt đầu họ.

Khi những hoạt động ám muội này, sau đó được thực hiện bởi nhân viên tình báo CIA, bị lộ ra vào cuối thập niên 1960 thì người Mỹ và phong trào hòa bình thế giới đã phản ứng rất dữ dội. Nhiều buổi điều trần trước Quốc Hội đã được triệu tập và hàng loạt những bài xã luận đã được viết ra để lên án hành động đó. Là một trong những người đã trải qua một số năm thời thơ ấu trong những hầm trú ẩn để tránh bom Anh và Mỹ, tôi cảm thấy sự kích động này không mấy trung thực. Phải chi quân Đồng Minh đã tìm ra cách thức tương tự để loại trừ cho thế giới những quan to Đức Quốc Xã, các quan chức độc ác địa phương, mật thám Gestapo và sĩ quan SS, thì có lẽ rất nhiều mạng sống thường dân đã được cứu vớt rồi.

Các ký giả thuộc trường phái cũ được những quân nhân chuyên nghiệp rất tin tưởng vì họ luôn luôn hành động theo một nguyên tắc sắt đá là không bao giờ để lộ nguồn tin tức đã thu thập được. Giữ bí mật là một đức tính của người phóng viên tương tự như khả năng tìm bới tin tức vậy. Đấy là lý do tôi chưa bao giờ viết về chuyện này mãi cho đến bây giờ, mặc dù tôi đã được nghe rất nhiều chi tiết sốt dẻo đêm hôm đó. Chẳng hạn tôi được kể là nếu muốn đi theo một toán công tác như vậy thì phải được chuẩn bị cho bản thân mình ít nhất là ba tuần trước đó: không hút thuốc lá, không uống sữa, không dùng nước hoa cạo râu hay thuốc khử mùi. Tại sao không được ăn bơ hay uống sữa? Tôi tự hỏi. Những tay Mũ Nồi Xanh giải thích tại vì bọn Việt Cộng rất thính mũi, chúng có thể đánh hơi được mùi khai từ  cơ thể tiết ra khi tiêu thụ các thức ăn có sữa. Mùi này có thể tồn tại nhiều ngày trong cái không khí bí đọng của tàng cây bốn tầng trong rừng sau khi một người phương Tây đã nhổ trại vài tiếng đồng hay có khi cả vài ngày trước đó.  Điều này sẽ tiết lộ sự hiện diện của họ đối với những tay Việt Cộng dày dạn kinh nghiệm và có thể nói trên thực tế là họ có thể "đánh hơi" ra bạn.

Tuy nhiên tôi không phải hy sinh bơ sữa hay bỏ thuốc lá mãi cho đến khoảng một chục năm sau, bởi vì không có gì vô lý hơn trên phương diện nghề nghiệp là phải tháp tùng một chuyến công tác đầy nguy hiểm mà lại không có quyền tường thuật lại.

Sáng sớm hôm sau có một đoàn xe nhỏ rời trại Mộc Hóa để đi Long Khốt. Tôi đi theo xe jeep của Trung úy Kenneth Crabtree thuộc LLĐB. Cabtree khoảng chừng 24 tuổi, người gốc bang Colorado, và tự giới thiệu mình là Cố vấn của Đại úy Ngữ. Tuy nhiên anh ta nhanh chóng cười vui vẻ thêm vào: "Thật là tức cười. Đại úy Ngữ gấp đôi tuổi tôi và kinh nghiệm hơn tôi cả trăm lần. Ông ta đã đánh nhau với Việt Minh từ thời là lính chuyên nghiệp trong quân đội Pháp. Trên thực tế ông là thầy tôi và tôi là học trò của ông. Tuy nhiên chúng tôi đã trở thành bạn thân với nhau."

Crabtree đưa cho tôi một khẩu súng lục Colt 0.45, chỉ cách mở chốt an toàn và nói: "Tôi biết phóng viên không mang vũ khí trong khu vực chiến tranh. Nhưng trong tình huống bị phục kích, anh phải tự bảo vệ lấy thân vì có thể tụi nó đông hơn mình nhiều."

"Phục kích ở đây? Vùng này phẳng lì như tờ giấy, núp ở đâu được?" Tôi hỏi lại, vừa nhìn quanh quất quang cảnh đầy bụi bậm và khô ráo trong mùa khô.

"Anh sẽ ngạc nhiên đấy," Crabtree trả lời. "Những người nông dân bên đường, mấy đứa trẻ đang cưỡi trâu kia kìa - Họ đều có thể là Việt Cộng, hay ít nhất là trinh sát của chúng đó. Tôi sẽ không cảm thấy an toàn cho đến khi vào được lãnh thổ của Đại úy Ngữ. Ông ta nắm vững được tình hình, ở đây thì không chắc ăn chút nào."

Địa hạt của Đại úy Ngữ vào khoảng 80 ngàn mẫu tức 309 dặm vuông. Bộ chỉ huy và chỗ ở của ông là một căn biệt thự màu trắng xây theo kiểu Tây thực dân chỉ cách biên giới Cambodia độ chừng 500 thước. Lúc chúng tôi đến gần, hàng đoàn người Cambodia đang quẩy gánh mang ra chợ Long Khốt các loại trái cây, rau cỏ, cá, vải vóc, rượu dứa Trung Hoa và thuốc lá Gauloises của Pháp - Nhãn hiệu ưa thích của tôi lúc đó.

"Phần lớn là hàng buôn lậu đấy nhưng chuyện này không lo," Trung úy Crabtree nói. "Tụi tôi chỉ để ý những tên vượt biên giới vào ban đêm. Chúng mới là kẻ địch - bọn Việt Cộng đấy. Cambodia thực sự là khu ẩn nấp của tụi nó, mặc dù Sihanouk có nói gì đi chăng nữa."

Trở lại năm 1965, mười năm trước khi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ sát hại hai triệu người dân, một phần ba dân số Cambodia, vương quốc này là một chốn thần tiên huyền hoặc. Đó là phần đất hòa bình cuối cùng của vùng Đông Dương thuộc Pháp cũ, là một quốc gia trung lập mà người cai trị, Thái tử Norodom Sihanouk đã chứng tỏ được sự sáng suốt của mình trong nhiều lãnh vực: như là một chính khách, một biên đạo múa, một tài tử và đạo diễn điện ảnh, một nhà thơ, nhà phê bình văn học, một đầu bếp, một nhạc sĩ saxo, nhạc sĩ dương cầm, nhạc sĩ phong cầm và nhà soạn nhạc hòa tấu gợi nhớ đến giai điệu lãng mạn của Charlie Chaplin. Nhưng có một điều mà ông ta thiếu sót: đó là sức mạnh quân sự. Đội ngũ 34 ngàn người của ông không kiểm soát nổi khu vực phía Đông của Cambodia mà Việt Cộng đã sử dụng làm nơi trú ẩn an toàn và cơ sở hậu cần. Ngay từ năm 1965, tôi đã thấy Việt Cộng vượt biên giới qua lại như chỗ không người. Để đối phó lại thì Đại úy Ngữ, một tay chi khu trưởng Việt Nam Cộng Hòa tầm thường, đã cài được người phía bên kia biên giới để mật báo về khi nào bọn Việt Cộng di chuyển và chuyên chở những thứ gì. Đây là trường hợp xảy ra trong cái ngày mà tôi gặp ông ta.

Lúc tôi và Trung úy Crabtree bước vào văn phòng thì Đại úy Ngữ còn đang mặc cái quần đùi và áo thun.

Đứng trước một tấm bản đồ lớn, Ngữ nói, vừa hào hứng chỉ vào một điểm bên kia biên giới chỉ cách nhà ông ít hơn một dặm: "Đây này, chúng ở đây này, Người của tôi đã khám phá ra cả một đại đội Cộng quân với 2 ngàn bao gạo. Điều này chứng tỏ chúng đang sửa soạn di hành xa. Ðể mình sẽ chào mừng tụi nó với pháo bông. Tôi đã báo động bên BTT rồi."

BTT là ký hiệu quân sự của Bình Thành Thôn, một căn cứ gần đó, nơi đồn trú của hai đại đội Việt Nam Cộng Hòa (ARVN) và toán Lực Lượng Đặc Biệt A-413 khoảng 12 sĩ quan và hạ sĩ quan. Họ có đủ hỏa lực để chận đứng Việt Cộng xâm nhập.

Hầu hết những người đàn ông Việt Nam tôi quen đều nói với một giọng mũi khá cao, nhưng Ngữ thì không như vậy. Ông có một giọng trầm, khàn như Jean Gabin, có lẽ do truyền thống nhiều năm phục vụ trong quân đội Pháp mà đa số là nhiệm vụ chiến đấu.

Đại úy Ngữ mặc quân phục vào định dắt tôi đi thăm chi khu nhưng trước đó ra hiệu cho tôi ngó kỹ vào tấm bản đồ:

"Chúng tôi có 10.295cư dân và trong đó 6.834người sống trong vùng tôi kiểm soát. Phần còn lại sống dưới chế độ Cộng sản. Tuy nhiên nó đã khác rất nhiều so với 5 năm trước khi tôi về đây. Lúc đó bọn Cộng sản nắm hơn hai phần ba dân số trong chi khu này."

"Cái gì đã làm thay đổi điều đó?" Tôi tò mò muốn biết.

Đại úy Ngữ chỉ vào 13 khu định cư. "Lấy mấy cái ấp chiến lược này làm thí dụ nhé. Đây là những chỗ chúng tôi đưa dân về theo kiểu người Anh đã làm tại Mã Lai Á khi ông Robert Thompson còn ở đó."

Trước khi dẫn tôi đi chung quanh bằng chiếc tàu đổ bộ của quân đội Hoa Kỳ đang đậu neo ngay sát căn nhà ông bên một nhánh của dòng sông Cửu Long, Đại úy Ngữ  bắt đầu giở một trong những trò đùa thực tế của ông, có lẽ để thử sức tôi. Ông đưa tôi ghé vào một tiệm tạp hóa, giả tảng là để mua một ít vật dụng. Vừa vào tới cửa thì một con trăn to từ đàng sau cái quầy bò ra quấn vào người tôi và đặt cái đầu của nó trên vai phải tôi. Mọi người phá ra cười, Ngữ, Cabtree, chủ quán, cả nhà và khách chung quanh nữa.

Tôi liếc vào khẩu Colt 0.45 trong bao của Trung úy Cabtree, tự nhủ có thể nào chụp lấy bằng tay trái và nổ vào đầu con trăn nếu nó định quấn chặt tôi thêm hay không. Nhưng tôi nhấc không nổi cánh tay vì con trăn trói chặt quá. Con vật to lớn này may quá thôi không siết tôi nữa mà bò về chỗ cũ đàng sau cái quầy sau khi thấy chủ nhân ra hiệu.

"Thế đó, điều này chứng tỏ chúng tôi biết làm thế nào để duy trì an ninh tại đây." Ngữ cười lớn. "Đố thằng trộm nào lẻn được vào đây ban đêm. Nếu dám làm như vậy, con trăn này sẽ bóp cổ và nuốt sống nó. Nhìn đây nè, còn một con nữa sau quầy nè. Con này nhỏ hơn nhưng chẳng mấy chốc sẽ sẵn sàng để hành động."

Sau vụ đó thì chúng tôi lên đường đi thăm một vài cái ấp chiến lược của Đại úy Ngữ bằng tàu thủy.

"Tại sao anh không mang súng theo?" Tôi hỏi ông ta.

"Người Pháp đã dạy tôi là một người lịch sự phải bỏ súng ra khi vào nhà riêng của một người khác."

"Nhưng...?"

"Không có nhưng gì hết. Những ngôi làng này là nhà riêng của dân. Do đó tôi không được phép mang vũ khí vào nhà họ. Mọi người rất trân trọng điều này."

Lẫn trong tiếng động cơ nổ dòn của chiếc tàu , Đại úy Ngữ chỉ cho tôi ba ngôi làng trên tấm bản đồ: "Trong ngôi làng này, một phần ba dân là thân cộng. Cái này thì chỉ có ba tên, còn cái làng kia gần đó thì chỉ còn có hai tên theo Việt Cộng thôi."

"Sir Robert Thompson cho là cán bộ nằm vùng trong làng còn quan trọng hơn là du kích quân Việt Cộng trong rừng," tôi nói.

"Ông Thompson nói trúng phóc. Nhưng tôi biết hết bọn cán bộ nằm vùng ở đây. Tôi biết từng tên một làm chúng không làm ăn gì được. Dĩ nhiên tôi có thể tóm cổ chúng bất cứ lúc nào," Ngữ nói. "Nhưng để làm gì? Cứ mặc kệ bọn nó lại còn theo dõi được hoạt động của kẻ địch, ai là liên lạc viên và chúng định dở trò gì. Tôi còn biết cả tên của hai tên Việt Cộng đang nằm vùng trong một đại đội VNCH ở BTT. Nhưng chúng tôi để yên tụi nó. Thực tế bọn nó đang giúp chúng tôi mà không biết. Một mạng lưới chỉ điểm chặt chẽ là một trong những yếu tố quan trọng nhất để thắng chiến tranh du kích và tôi đang có một mạng lưới hiệu quả như vậy."

Chúng tôi vào một trong những ấp chiến lược và đến thẳng trạm y tế mới toanh trong một chòi đất. Thượng sĩ William Nichols, tay y tá thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đi chung với chúng tôi lập tức bắt tay vào việc cùng với một y tá quân đội Việt Nam. Họ phát thuốc, chích thuốc, săn sóc phụ nữ mang thai, băng bó vết thương, khám phổi với ống nghe, và cố gắng an ủi một ông lão bị lao phổi nặng.

"Nichols này giỏi lắm," Trung úy Crabtree nhận xét. "Tôi đã từng thấy hắn mổ cả những trường hợp khó khăn nữa."

Chúng tôi ra ngoài và tôi sửng sốt thấy nhiều người đàn ông mặc đồ đen mang súng trường M-1 đứng đầy trong làng.

"Trời đất ơi, Đại úy," tôi thốt lên. "Việt Cộng không hà!"

"Bình tĩnh lại," Ngữ thản nhiên trả lời, "Không sao đâu, đây là người của tôi. Họ trông giống Việt Cộng đấy nhưng là lực lượng nhân dân tự vệ. Họ sống chung với gia đình ở đây. Nhiệm vụ họ là bảo vệ xóm làng, nhất là ban đêm để đừng bị rơi vào tay Việt Cộng lúc trời tối. Khi cần thiết, họ sẽ được tăng cường yểm trợ nhanh chóng từ những đơn vị đang đóng ở BTT."

"Như vậy họ là một thành phần quan trọng cho chương trình chống nổi dậy à?"

"Đúng vậy. Nhìn bề ngoài tưởng không quan trọng nhưng trên thực tế họ rất hiệu quả. Chúng ta phải đánh cuộc chiến này theo lối của Việt Cộng. Thật là ngu nếu phải đánh nhau với những phương cách qui ước, và càng ngày càng có nhiều người cứ muốn làm như vậy. Chiến tranh qui ước không mang lại cảm giác an toàn cần thiết cho người dân. Cách của chúng tôi tốt hơn, ông thấy đấy."

Trên đường trở về Long Khốt, Ngữ nói với tôi với vẻ mặt bí ẩn: "Anh là người Đức, anh thích ăn thịt ngỗng, đúng không? Tôi từng có nhiều bạn bè người Đức trong đội lính Lê Dương, thằng nào cũng thích thịt ngỗng cả."

"Vâng, chúng tôi ai cũng thích hết, nhất là vào dịp Giáng Sinh: ngỗng quay với cải đỏ và bánh khoai tây. Một món ăn khoái khẩu mùa đông nhưng tôi nghĩ sẽ không thích hợp cho khí hậu nhiệt đới ở đây."

"Tối nay sẽ có món thịt ngỗng lạnh trộn xà lách," Ngữ tuyên bố với vẻ mặt tinh quái.

Tôi lại phải sửa soạn cho một trò đùa thực tế nữa rồi. Khi chiều xuống, chúng tôi ngồi trước một bàn ăn phủ một tấm vải trắng bên cạnh các cánh cửa kiểu Pháp dẫn ra khu vườn của nhà Đại úy Ngữ. Có một con khỉ bị xích lại cứ nhảy tưng tưng từ trong nhà ra cái cây ngoài vườn. Bà vợ Đại úy Ngữ tiếp cho chúng tôi rượu Beaujolais trong những hộp thiếc, có lẽ mua từ những tay buôn lậu Cambodia.

Một người làm dọn lên một tô thủy tinh chứa đầy một chất lỏng màu đỏ trong đó có lẫn những miếng thịt bầy nhầy.

"Thịt ngỗng nè," Ngữ cười vang lên. "Gỏi ngỗng tươi. Ngon lắm."

Tôi thật tình không biết có phải là thịt ngỗng hay không. Tuy nhiên cũng múc một ít vào đĩa và độn vào một đống cơm với ý định chỉ ăn một chút phần trên thôi. Nhưng cái chất lỏng màu đỏ từ thấm ra khỏi đống cơm và đúng lúc đó con khỉ đu vào trong phòng ăn và "hạ cánh" chễm chệ trên đầu tôi.

Tôi nhìn vào đĩa cơm đẫm màu máu trong khi con khỉ nắm tóc tôi. Mọi người cười vật vã ra và đột nhiên tôi thấy muốn bịnh. Ngữ chỉ cho tôi đến phòng vệ sinh. Tôi tìm không ra công tắc bật đèn nhưng đoán đây chắc là loại nhà vệ sinh ngồi xổm kiểu Pháp mà tôi biết. Tôi bước lên hai cái bệ mà tôi cho là bệ nhà cầu và đi tiểu, cũng như nôn tháo về cái hướng mà tôi đoán là cái lỗ cầu tiêu.

Bỗng nhiên mặt đất dưới chân tôi bắt đầu di chuyển, đưa hai bàn chân tôi dạng ra lúc càng xa hơn. Tôi tìm ra cái bật lửa Zippo và nhận thấy ra là tôi đang đứng trên hai con rùa khổng lồ đang cố bò thật nhanh đến hai con khác. Đã đến lúc phải về thôi. Nói cho cùng, tối hôm đó tôi đã có dự tính tháp tùng Trung úy Crabtree và toán hỗn hợp quân lính Việt và Mỹ trong một cuộc hành quân ngăn chận Việt Cộng xâm nhập. Do đó tôi từ giã Đại úy Ngữ và bà vợ anh ta.

"Hẹn gặp ngày mai để anh nhẩy dù nhé."

Tôi, nhảy dù? Lại giỡn chơi nữa hay sao?

Đêm hôm đó, Trung úy Crabtree và tôi nằm sấp trong một cái mùng cách biên giới hai trăm thước, mắt chăm chăm vào bóng đêm. Chẳng thấy ai tới cả. Tuy nhiên một chốc sau, có lẽ khoảng nửa dặm về phía tay mặt của chúng tôi, trời đất bỗng nổi cơn thịnh nộ. Tiếng súng nhỏ, súng liên thanh, tiếng bích kích pháo nổ rền trời. Tôi thấy trời đêm rực sáng lên.

"Phe ta chắc đang đột kích tụi đại đội Việt Cộng với 2 ngàn bao gạo mà Đại úy Ngữ đã nói tới," Crabtree nói.

Sáng hôm sau chúng tôi lái xe đến Bình Thành Thôn. Một chiếc Caribou của Quân đội Hoa Kỳ vừa đáp xuống cái phi đạo đất để cho các sĩ quan và binh lính Lực Lượng Đặc Biệt nhẩy dù bồi dưỡng để tiếp tục được đeo huy hiệu bằng Dù. Đại úy Ngữ đã có mặt sẵn tại đó, miệng cười toe. Phi hành đoàn lập tức đeo một cái túi dù trên lưng tôi. Tôi không phản đối. Tôi chưa bao giờ nhẩy dù trong đời cả nhưng không muốn bị mất mặt với Đại úy Ngữ. Vả lại theo như lời Crabtree kể, anh ta là một người hùng mà. Trong thời gian đó, tôi hết sức ngông cuồng, tuổi thì trẻ và rất dẻo dai, chỉ cân nặng có 140 pounds, lại không có gió mạnh nữa. Tôi tự nhủ chẳng có gì mà lo lắng cả.

Điều tiếp theo tôi biết là chúng tôi đã bay lên trời rồi. Tôi đứng dậy theo mọi người và làm theo họ móc dù vào sợi giây cáp phía trên. Tôi nghe người phụ trách nhẩy dù hô toáng lên. Mọi người nhanh chóng nhẩy ra theo từng đợt từ phía sau chiếc Caribou. Tôi chưa kịp suy nghĩ bao giờ đến phiên mình thì đã bay ra ngoài chiếc máy bay và rơi xuống rồi. Chiếc dù mở ra như dự tính. Có ai đó đã từng mách với tôi là khi nhẩy dù chạm mặt đất thì phải lăn mình ra phía trước. Tôi làm y như vậy. Thế là xong. Tôi còn sống sót và toàn mạng. Chúng tôi rơi xuống một cánh đồng khô ráo. Tôi cuốn dù lại với sự giúp đỡ của một anh lính và đi theo những người khác. Chúng tôi đến một trạm nghỉ chân.

Bỗng nhiên mặt đất dưới chân tôi sụp xuống. Tôi vội vàng nhẩy qua một bên. Chỗ tôi vừa đứng lại trồi lên lại. Tôi dùng hết sức mình nhẩy mạnh lên chỗ đó và nghe thấy một tiếng rên. Tôi lại bước qua một bên, hiểu ra là có ai đó đang núp bên dưới. Tôi cẩn thận moi đất chung quanh để lộ ra một cái nón cối ngụy trang, cái kiểu mà lính Việt Cộng hay đội vậy. Tiếp theo là tôi thấy một mũi súng thò ra. Tôi cẩn thận nắm lấy ngay và kéo nó ra khỏi mặt đất. Tôi đã có trong tay một khẩu súng M-1 cổ lỗ sĩ từ thời Đệ Nhị Thế Chiến. Tôi gọi một anh Lực Lượng Đặc Biệt lại và hè nhau lôi ra một gã ốm yếu, trạc tuổi trung niên và ăn mặc toàn đồ đen. Hắn đứng run lẩy bẩy.

"Can đảm lên anh bạn, đối với anh cuộc chiến đã chấm dứt rồi," Tôi nói với hắn bằng tiếng Pháp. Anh ta nhìn tôi nhăn nhó.

Những người Mỹ giữ khẩu súng và trao tù binh cho các sĩ quan VNCH. Tôi giữ lại cái nón cối làm kỷ niệm. Nó nằm hàng chục năm trên một cái kệ đàng sau bàn giấy trong thư viện ngôi nhà của tôi tại Pháp. Tôi thường ngắm cái vật đó và tư lự: Đại úy Ngữ, bây giờ anh đang ở đâu? Anh quả là một người hùng, một người cương trực với tính khôi hài một cách dữ dằn. Đâu rồi những con trăn, con khỉ, đĩa xà lách ngỗng tươi và những con rùa khổng lồ của anh? Anh có sống sót nổi qua những trận đánh mãnh liệt những năm sau đó đã tràn ngập vào Long Khốt và chi khu của anh? Anh còn sống nổi sau chiến thắng của Cộng quân năm 1975 không? Liệu bọn Cộng sản có thắng nổi nếu lý thuyết của Sir Robert Thompson và của anh đã được áp dụng?

Vâng, anh là một người tốt. Một người giỏi nhất. Chương này đã được viết ra để vinh danh anh, Đại úy Ngữ, và những ai muốn tỏ lòng tôn kính anh có thể đến Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Việt Nam tại Garden Grove, California. Ðó là nơi mà chiến tích của tôi, cái nón cối của gã Việt Cộng mà tôi đã bắt được sau chuyến viếng thăm anh đã tìm được chốn dung thân cuối cùng.


Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2012
Loading