Loading
Site map
Tìm Kiếm Bài Đã Đăng
Tài LiŒu Nhân džc bài vi‰t vŠ bác sï NguyÍn Công TrÙ
Đọc bài viết này tôi vô cùng cảm động khi có một người đàn anh xứng đáng như vậy. Tôi không được biết nhiều về đời tư của anh chỉ biết mang máng là anh học trên tôi 3-4 năm gì đó. Anh là Nội Trú giỏi chuyên ngành OB-GYN. Hình như anh ở lại nội trú vài năm sau khi ra trường với hy vọng về trường Y-khoa làm Phụ Giảng Viên nhưng không thành. Anh phải nhập ngũ và được thuyên chuyển về Quân y viện Qui Nhơn vào  MÙA HÈ ĐỎ LỬA năm 1972.

Bọn chúng tôi khoảng 10 người cùng gia nhập quân đội được biệt phái về quận An Túc, Qui Nhơn, phải dừng quân ở Thị xã Qui Nhơn trong ngày Tết 1973. Trong lúc bơ vơ xứ người tình cờ gặp lại anh tại đây trong một thời gian thật ngắn.

Anh thật vui khi thấy đàn em đến với anh trong lúc anh cô đơn trong xứ Bình Định này. Anh không hòa đồng với bạn bè cùng lớp nhận nhiệm sở trước anh vì anh không hợp “jeu” với họ. Họ có lối sống phong nhã của Y sỹ ở BV. Khám ngoại chuẩn, làm phòng mạch, giải trí mạc chược, đánh phé.

Những xôi động chiến trường đã mang  thương  binh về BV càng ngày càng đông. Anh bù đầu lo cứu sống nhiều người chừng nào hay chừng đó. Anh làm việc vì công tâm với tấm lòng thương người. Anh đùa có khi ông phải mổ sọ não để cầm máu cho  thương binh? Hỏi anh tại sao anh không làm như bạn anh? Anh nói là anh chưa thích ứng và vì tinh thần hướng đạo anh có một đường hướng khác.

Một buổi sáng, chúng tôi nhàn cư vì không phải là toán trực. Trần Chánh Khương hướng dẫn Anh đến ngay chổ đóng quân của chúng tôi ở Ghềnh Ráng xin phép cho khoảng 7- 8 SVSQ thuộc nhóm cựu SVYK 67-74 trong đó có Hoàng Lộc, Lại Văn Tiến, Trần Quấc Hùng và vài người bạn nữa. Anh chưa cho biết là sẽ đi về đâu. Chúng tôi theo anh xuôi về hướng nam khoảng vài cây số, qua một ngọn đèo nhỏ, vào một con đường độc đạo ngoằn ngoèo đầy bóng râm của một khu rừng thông nho nhỏ, soai soải trên đường đèo thỉnh thoảng vài nấm mồ hoang, rồi hiện lên một ngôi mộ khá cao xây rất tươm tất sơn trắng thì phải. Anh cho tôi biết đó là ngôi mộ của thi sỉ Hàn Mặc Tử. Lúc này Anh tiết lộ là mình đang vào trại cùi Qui Hòa, nơi Hàn Mặc Tử gữi thân vỉnh viễn. Câu hỏi là hết chổ đi chơi sao mà anh dẫn tôi vào chốn này? Tôi rất mến thi sỉ Hàn Mặc Tử nhưng không có tâm tư để nghĩ đến người và thăm trại cùi mà người gửi thân tàn. Chúng tôi có biết đâu đây là một hân hạnh độc nhất một đời người chưa có được. Chợt khi chiếc xe lăn bánh qua khỏi rừng phi lao thì một cảnh thần tiên hạ giới bày ra trước mắt. Tôi không nghĩ là ở VN có một bãi biển nào đẹp như vậy.

Trời trong xanh với những lọn mây trắng bàng bạc. Bãi cát trắng tinh màu trắng của trang giấy học trò, sạch sẽ không một miếng rác. Dọc trên khoảng đất dài là những bụi cây bông giấy màu đỏ rực trồng trong bồn gạch đuợc cắt xén tươm tất. Lối trình bày nhiều bụi cây xanh ngăn nắp như khu vườn ở Anh hay Pháp rất đẹp và gọn gàng. không khí trong lành, yên tỉnh, gió biển mát, hơi nước mằn mặn hòa lẫn với tiếng sóng biển nhịp nhàng. Cảm giác thoải mái ngây ngất trước một bãi biển kiểu phương tây, một kiểu thiên đàng hạ giới. Sau này tôi mới biết đây là nơi nghỉ mát kín đáo của hàng giáo phẩm VN. Nhìn sâu vào phía trong gần vách núi là những dải nhà gạch khang trang sơn xanh mái ngói lẩn khuất trong hàng dừa duyên hải, lá dừa phất phơ trước gió tạo những âm thanh rào rạt vui tại. Nơi này là nơi cư ngụ của bịnh nhân phong cùi…

Trại Qui Hòa được quản trị bởi một dòng có mẹ bề trên là người Pháp.

Chúng tôi được đưa vào đại sảnh được trang trí thanh lịch kế bên đó là một bàn tiệc trình bày theo kiểu tây do bàn tay khéo léo của các Mère, các soeur. Buổi tiệc kéo dài gần 3 giờ đồng hồ với 5 lần ăn thức ăn chánh (main disc) có rượu vang, chưa kể món kem tráng miệng tuyệt hảo. Trên đời tôi cho đến lúc này, chưa có một buổi ăn nào ngon như vậy. Trong khi ăn tôi tò mò hỏi một vị soeur người Việt, mới được soeur cho hay là đã bao năm rồi trại cùi nầy không có bác sĩ. Các soeur có ra ngoài thành phố năn nỉ một số BS vào giúp trại thì không có ai có thì giờ cho trại cùi vì các anh biết là chăm sóc người cùi khi lở lói phải dùng phẩu thuật rất mất thì giờ mà đất Qui Nhơn từ khi người Mỹ đến thì thì giờ của các bác sĩ là tiền bạc. Chúng tôi vô cùng thất vọng, thì một hôm gặp BS Trứ. Ông bất ngờ vui vẽ nhận lời. Và ông đến chăm sóc các người bệnh cùi kỹ lưỡng hơn những vị tu sĩ chúng tôi.

Lòng nhân ái cao hơn chúng tôi vì việc làm tôi có định hướng còn BS TRỨ không có dự tính. Ông làm việc tận tâm chu đáo, làm dịu hẵn nổi đau thương gặm nhấm thân thể người cùi và ông không hề lấy thù lao. Bữa tiệc ngày hôm nay BS TRỨ không hề hay biết và  không ngờ chúng tôi chuẩn bị thịnh soạn để gọi là biểu lộ một tấm lòng biết ơn của chúng tôi khi nghe BS TRỨ hướng dẫn một số đàn em đến thăm viếng.

Hai hôm sau anh đến với chúng tôi một nửa. Lần này anh vừa lãnh lương và nhất định đãi chúng tôi một món đặc sản ở Qui Nhơn là món chim mía, là chim sẻ người ta bắt được khi bủa lưới một ruộng mía. Chim được rang dòn và ăn rất ngon gọi là tiễn chân chúng tôi rời thị xã Qui Nhơn, vượt đèo An Khê đến quận An Túc.

Quê lạ xứ người được một đàn anh chí tình như anh thì không gì ấm lòng bằng.

Đã qua gần 40 năm với ký ức nhạt nhòa ít nhiều  hi vọng bài viết này về anh Trứ một phần là ghi lại một kỷ niệm về một cơ duyên được quen biết anh và một phần là đề tỏ tình ngưỡng mộ một đàn anh đáng kính:
BÁC SĨ NGUYỄN CÔNG TRỨ!

Lê Minh Đức

                                                  ++++++++++++++++++++++++++++++++++

Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ, tấm lòng nhân ái
Tuesday, January 11, 2011

(Nhân đọc bài “Thêm một mộ tập thể 47 tử sĩ VNCH những ngày cuối cuộc chiến,” của Huy Phương)

Ðặng Phú Phong (Nguồn trích dẫn: Người Việt Online)

Tôi tình cờ đọc bài báo của tác giả Huy Phương, viết về lòng dũng cảm và tinh thần thương mến binh sĩ của Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, đăng trên báo Người Việt ngày 31 tháng 12, 2010.

Trong bài viết, tác giả Huy Phương có nhắc đến một vị bác sĩ, tên là Nguyễn Công Trứ. Ðọc xong bài báo, tôi vừa mừng rỡ, vừa xúc cảm.

Xúc cảm, vì thương cho cái chết bi phẫn và hào hùng của một đại tá QLVNCH. Mừng rỡ vì biết được tin tức một người bác ái, nhân từ, từng cứu giúp cho anh em tù nhân trại tù K18, Kim Sơn, Bình Ðịnh, trong đó có tôi.

Vị bác sĩ này, tôi đã dò tìm tin tức 30 năm nay mà không ra. Người ấy là Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ.
Trung Úy Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ làm việc tại bệnh viện Quân Y Qui Nhơn cho đến ngày cuối cùng khi tỉnh Bình Ðịnh lọt vào tay cộng sản, khi mà gần như tất cả các bác sĩ, nhân viên của quân y viện Qui Nhơn đã di tản, bỏ lại ông là bác sĩ duy nhất với la liệt thương binh. Với tinh thần nhân ái, ông hết mình tận tình cứu chữa. Rồi Việt Cộng xuất hiện, ném ông vào trại cải tạo.

K18 Kim Sơn là trại tù nằm trong thung lũng của vùng rừng núi thuộc quận An Lão, Tây Bắc tỉnh Bình Ðịnh, ma thiêng và nước độc. Bác Sĩ Trứ và Bác Sĩ Khải cùng khoảng 2, 3 y tá (lấy từ anh em tù) được đưa vào công tác y tế dưới quyền của một nữ thượng úy công an tên Luận. Một thời gian sau, Bác Sĩ Khải được phóng thích, chỉ còn ông Trứ là bác sĩ duy nhất lo cho anh em trong trại.

Mỗi buổi sáng, tù nhân sắp hàng theo từng phòng để cán bộ trực trại phân phối đi lao động. Bác Sĩ Trứ có nhiệm vụ khám những ai xin khai bệnh. Tiêu chuẩn mỗi phòng (khoảng 50 người) được 1 hay 2 người nghỉ là tối đa. Gặp mùa sốt rét, dịch tả, kiết lỵ, anh em tù nhân khai bệnh đông đảo hơn.

Mặc dù đã hết sức dằn lòng, Bác Sĩ Trứ không thể không cho những người bệnh nặng ở nhà. Vì thế, con số nghỉ bệnh của mỗi phòng thường lên đến 3, 4 hay 5 người. Thượng Úy Luận nhiều lần công khai mắng chửi thậm tệ Bác Sĩ Trứ trước hàng ngàn tù nhân. Ông chỉ biết khóc, nước mắt đọng mờ cặp mắt kính cận thị của một tấm lòng đầy vị tha.

Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ người gầy ốm, dong dỏng cao, trông càng cao trong bộ đồ tù màu xám, thùng thình, xốc xếch, ống thấp ống cao. Bước chân ông khá dài và nhanh nên lúc nào cũng thấy ông như bận rộn. Ðôi mắt có vẻ ngơ ngác sau cặp kính cận thị dày cộm, cái mắt kính mà suýt có lần gãy vụn vì đi ra vào cổng phải đứng nghiêm, quên lấy kính xuống để báo cáo cán bộ. (Nhiều tù nhân từng bị đập mắt kính, có khi ăn đòn, vì “tội” mang kính cận trước mặt cán bộ).

Những lúc rảnh việc trong trạm xá, Bác Sĩ Trứ xin phép ra ngoài trại, mon men đâu đó, hái một ôm cải trời, mò mẫm vài vũng nước, bắt một vài con cá, con cua, đem về “cải thiện.” Có điều, ông không cải thiện cho ông, mà cho các bệnh nhân đang nằm trong trạm xá. Có khi thì ông dành những tặng vật ấy cho những đứa trẻ mồ côi, bụi đời lâu lâu gặp “chiến dịch,” bị công an hốt quăng vô trại. Vậy mà cũng nhiều phen, khi vào cổng, gặp công an hách dịch bắt ném đi, ông không mang được nắm rau, con ốc ấy vô trại.

Mỗi lần được thăm nuôi, ông chỉ ăn một bữa, dành lại vài thứ chí thiết (nhưng để rồi cho, khi có người cần, như thuốc tây chẳng hạn). Còn bao nhiêu ông đem hết ra, chia cho bệnh nhân “con bà sơ, bà phước” và trẻ bụi đời bên trại thiếu nhi. Thế là xong, ông trở lại cơm tiêu chuẩn của trại. Buổi sáng: Một chén khoai mì khô với nước muối. Trưa, chiều: một chén cơm hẩm mục, một chén khoai mì, một chút mắm và một chén canh “đại dương.”

Vậy mà Bác Sĩ Trứ, rất nhiều khi, chỉ ăn chén mì lát, nhường chén cơm cho một bệnh nhân vừa mới lành bệnh cần ăn nhiều hơn để lấy sức, hoặc cho một đứa trẻ đói ăn trong như bộ xương khô biết cử động.

Ông cho, nhường những thứ quí hơn vàng như vậy với một lý do thật đơn giản: “Tôi không đi lao động, ăn thiếu, không đến nỗi nào.” Ôi! tấm lòng bao dung của biển.

Tháng 10, 1979, ông được phóng thích. Cán bộ mang lệnh tha xuống trạm xá, đưa ông ra khỏi trại một cách lặng lẽ. Cũng có một vài tù nhân tình cờ biết. Họ khóc, vẫy tay chào ông. Họ gọi ông là “người cha trẻ của tù nhân K18.” Ông đã cứu chữa tận tâm cho không biết bao nhiêu tù nhân, và cũng lắm lúc không cầm lòng được, hai tay ôm lấy xác của tù nhân, ông để cho những giọt lệ từ tâm tuôn trào.

Tôi tìm được số điện thoại của Bác Sĩ Trứ thông qua tác giả bài báo, nhà văn Huy Phương. Gọi mãi mấy lần, mấy số mới gặp được Bác Sĩ Trứ.

Thì ra, ông làm việc, bận rộn mỗi ngày từ 7 giờ sáng đến 10 giờ tối. Vẫn giọng nói đầy tình cảm, hiền hòa như ngày nào, ông rành rọt một thôi, kể cho tôi nghe những gì trải qua sau ngày được thả. Vượt biên tháng 10, 1980. Sống ở Indonesia 10 tháng. Ði định cư ở Buffalo, New York. Ðến California, ở nhờ một ông bác sĩ mù người Pháp. Làm tài xế, nấu ăn giúp cho ông này được một năm thì vào Airforce của Hoa Kỳ, trở lại học Y khoa. Hiện là bác sĩ về quang tuyến tại Ðại Học Cornell và một bệnh viện tại New York.

Bác Sĩ Trứ ngưng kể về mình bằng một câu: “Nhớ hồi đó tôi nấu một chảo lớn thuốc nam, thêm vào chỉ 1 viên Kí Ninh đô để chữa sốt rét cho cả trại, mà kinh.”

Như vậy đó, cái tấm lòng “Từ Mẫu” của một vị lương y lúc nào cũng tiềm tàng trong ông. Lúc nào ông cũng lo lắng cho bệnh nhân, có lẽ cả ngay trong giấc ngủ.

Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ cũng cho biết, mùa Hè này, ông về thăm California. Ông vẫn thường về California vào mùa Hè.
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2010
hanmactu3
Mộ Hàn Mặc Tử tại Ghềnh-Ráng
Qui Nhơn
nguyencongtru
SVYK Nguyễn Công Trứ
(Hình chụp Noen 1965 do Đỗ Mỹ Anh gởi)