Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2012
Site map
Tìm Kiếm Bài Đã Đăng

Loading
Minh Vũ Hồ Văn Châm (QYHD/5)
Nguồn trích dẫn

Phi cơ của hãng AirVietnam chở khoảng bốn mươi sinh viên Quân y từ Hà Nội vào Đà Lạt dự khóa huấn luỵện quân sự năm tuần lễ đáp xuống phi trường Liên Khàng vào xế trưa một ngày tạnh ráo đầu tháng 7 năm 1954. Ra khỏi khoang máy bay, không khí mát dịu khác hẳn cái nóng bức dưới đồng bằng khiến mọi người cảm thấy khoan khoái. Đại úy Nguyễn Ngọc Khôi đón chúng tôi ở ngay chân cầu thang máy bay, hướng dẫn chúng tôi vào bên trong nhà ga chờ nhận lại hành lý. Đại úy Nguyễn Ngọc Khôi là người của Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (EMIAD: Ecole Militaire Inter Armes de Dalat) cắt cử phụ trách liên đội Quân y chúng tôi trong thời gian thụ huấn quân sự. Chúng tôi được đưa lên ba chiếc GMC chở về thị xã Đà Lạt ở cách phi trường non 40 kilômét.

Ra khỏi địa phận phi trường là gặp ngay quốc lộ 20. Xe chúng tôi rẽ trái, hướng về Đà Lạt. Xa xa phía bên phải và song hành với đường xe chạy là một giòng nước trắng xóa chảy giữa những cụm đá nhỏ. Chúng tôi được cho biết đó là thác Liên Khàng. Rừng cây hai bên đường tàn lá lưa thưa, thân cây thấp nhỏ và không có dây leo chằng chịt như cảnh cây cao bóng cả của rừng già nhiệt đới. Qua khỏi Liên Khàng, đường đi tiếp tục bằng phẳng khi vào địa phận thung lũng Finom là vùng có nhiều trại trồng hoa hồng để chiết xuất tinh chất sử dụng trong kỹ nghệ nước hoa.

Finom và Liên Khàng ở cao độ 1.000 mét so với mặt biển. Đi chừng khoảng 20 kilômét nữa, xe bắt đầu lên đèo Prenn, chạy quanh co ven những ngọn đồi thông, lúc đầu còn lác đác, về sau đường càng lên cao thì rừng thông càng dày dặc, bạt ngàn. Đoạn đường này rất đẹp, mặt đường phẳng lì, độ dốc vừa phải, cung uốn mềm mại, phía chân núi nhiều chổ được cẩn đá tránh sạt lở, phía bờ vực thì ven đường có cả dãy dài cọc gỗ sơn trắng dọc thân và sơn đỏ trên đầu, trông rất đẹp mắt. Xe chạy ngang một tấm biển lớn cắm bên đường đề chữ "Chute Prenn" nhưng chúng tôi không trông thấy thác. Đại úy Nguyễn Ngọc Khôi cho biết trong chương trình thụ huấn có mục đi thăm danh lam thắng cảnh vùng Đà Lạt, trong đó có thác Prenn. Đoàn xe chúng tôi tiếp tục lên cao, quanh co ven những đồi thông xanh mướt một màu từ đỉnh cao đến lũng thấp, ngoạn mục vô cùng.

Hết đèo Prenn, bên đường lác đác xuất hiện một vài biệt thự lẻ loi giữa rừng thông, báo hiệu đã sắp sửa đến thị xã Đà Lạt. Thế rồi xe chúng tôi chạy vào một con đường tương đối thẳng và lài lài giảm độ cao, giữa những biệt thự đầy hoa, và cuối cùng đến một khúc quành men theo bờ một cái hồ nhân tạo xinh xắn có nhà thủy tạ với mấy chiếc thuyền pedalo đang thả neo. Xe chúng tôi chạy ngang qua một khách sạn lớn có tên là Hôtel Palace de Dalat, một nhà hàng có tên là Riviera, vượt qua một cây cầu nhỏ, rồi rời bờ hồ tiến vào một vùng đất đồi thoai thoải có những ngôi nhà nho nhỏ tường gạch quét vôi trắng và mái lợp ngói đỏ. Đây là cơ ngơi Trường Thiếu sinh quân Đà Lạt.

Học sinh đã đi nghỉ hè, trường bỏ trống nên nhà chức trách lấy làm nơi tạm trú cho liên đội quân y chúng tôi trong thời gian 5 tuần lễ thụ huấn quân sự ở Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Nơi đây, cái gì cũng nho nhỏ, xinh xinh. Từ những ngôi nhà, quãng sân, căn phòng, lối đi, cho tới giường tủ, bàn ghế, cái gì cũng có kích thước khiêm tốn, nhưng được cái là còn rất mới và rất mỹ quan. Tối hôm đó, chúng tôi được ăn bữa cơm quân trường đầu tiên tại Đà Lạt. Cơm ta, nhưng thức ăn nấu nướng và bày biện pha phách theo kiểu tây, mỗi người có phần riêng chứ không ăn chung, lấy thức ăn của phần mình vào dĩa bàn và ăn bằng dao nĩa, chứ không dùng chén đũa. Trời Đà Lạt về đêm mát lạnh. Chúng tôi ăn uống ngon lành và ngủ đẫy giấc.

Đà Lạt nằm trên cao nguyên Lang Biang, có độ cao trung bình từ 1.000 đến 1.500 mét. Điếm cao nhất là đỉnh Lang Biang cao 2.500 mét. Chợ Đà Lạt ở cao độ vừa đúng 1.500 mét. Cao nguyên Đà Lạt do Bác sĩ Alexandre Yersin phát hiện năm 1890. Khí hậu ôn hòa, quanh năm mát mẻ, nhiệt độ trung bình xê dịch từ 18 độ C đến 25 độ C, nên Toàn quyền Paul Doumer quyết định xây dựng Đà Lạt làm trung tâm nghỉ mát chung cho các xứ Đông Dương thuộc Pháp. Ban đầu, người Pháp tính chọn Dankia, nhưng sau nhiều cuộc khảo sát và bàn cãi, đa số ngã theo ý kiến của kiến trúc sư Éthienne Tardif chọn Đà Lạt làm trung tâm xây dựng thị xã.

Việc quy hoạch bắt đầu tiến hành năm 1898, và chỉ một năm sau, năm 1899, thị xã Đà Lạt đã có những công trình xây cất quan trọng đầu tiên nổi bật giữa những rừng thông bạt ngàn. Chợ Đà Lạt và khu phố xá buôn bán nằm trên một ngọn đồi cao nhất vùng, giòng suối Cam Ly dưới chân đồi được một con đập ngăn lại thành một cái hồ nhân tạo gọi là hồ Đà Lạt, có chu vi khoảng trên dưới 5 kilômét (sau này được đổi tên là hồ Xuân Hương). Biệt thự, công ốc, khách sạn, nhà hàng, đường sá, vườn tược, thảy thảy đều mang đậm dấu ấn phương tây. Thời đó, sân vườn nhà nào cũng phải trồng hoa, và đỉnh Lang Biang, đứng trước thềm "Hôtel Palace de Dalat" nhìn ra, không được có bất kỳ công trình kiến trúc nào che lấp.

Khách sạn nổi tiếng này đã được xây từ năm 1907 theo phong cách kiến trúc De Arco đặc thù Pháp và hoàn tất năm 1920. Qua các biến cố thời cuộc, khách sạn Palace sau một thời gian hoạt động trì trệ nay được chỉnh trang lại thành khách sạn 5 sao, là điểm hẹn chủ chốt của các chương trình du lịch Đà Lạt. Tôi có nghe chuyện một nhà doanh nghiệp Mỹ tên là Larry Hillblom trước đây có đến trú ngụ tại Hotel Palace đang đà xuống cấp, nhân cảm thương cho cái lẽ hưng phế ở đời nên đã bỏ tiền riêng sửa sang tầng hầm khách sạn thành một chỗ ngổi uống rượu vô cùng ấm cúng. Để tưởng nhớ công sức và thiện tâm người khách hào phóng, ban quản lý khách sạn đã đặt tên cho gian phòng uống rượu này là Larry's Bar. Từ ngày thiên di ra sinh sống ở nước ngoài đến nay, tôi chưa có dịp trở về Việt Nam nên không rõ số phận Larry's Bar về sau ra sao.

Cao nguyên Lang Biang trước thời Pháp thuộc hầu như không có người Việt Nam cư trú. Nhà khoa học nhân văn người Pháp Pierre Gourou, người đã mệnh danh văn minh Việt Nam là văn minh thảo mộc, nhận xét rằng người Việt Nam không xây nhà lập nghiệp trên những triền dốc cao hơn 15 mét so với mặt đất vùng trũng chung quanh. Trên đường nam tiến, sau khi vượt đèo Cù Mông, người Việt Nam men theo những cánh đồng duyên hải tiến thẳng vào Đồng Nai, để nguyên rừng núi nam Trường sơn cho các nhóm dân tộc thiểu số Tây nguyên cư ngụ. Triều Nguyễn chỉ thu phục trên danh nghĩa hai bộ tộc lớn Thủy xá và Hỏa xá, ủy thác cho tỉnh thần Phú Yên hằng năm thu cống phẩm và ban cho tù trưởng hai bộ tộc đó mũ áo quan tam phẩm. Vì vậy, cao nguyên Lang Biang cho tới ngày Alexandre Yersin phát hiện hoàn toàn là địa bàn sinh hoạt của các sắc dân thiểu số Mạ và Stieng.

Chỉ từ khi người Pháp mở mang Đà Lạt thành trung tâm nghỉ mát chung cho các xứ Đông Dương thuộc Pháp thì người Việt Nam mới lục tục kéo nhau tới định cư, chủ yếu là viên chức chính quyền từ Huế, giới thương gia và những người buôn bán nhỏ từ Sài Gòn, đem theo gia đình, quần cư tập trung ở những lũng thấp chung quanh khu chợ. Về sau, vì muốn có rau tươi tại chỗ cung cấp cho thị trường Đà Lạt, người Pháp mới nhờ chính quyền Nam triều mộ dân ngoài Bắc vào để lập hai ấp Hà Đông và Nghệ Tĩnh ở vùng ngoại ô. Nhưng từ khi người Việt Nam bắt đầu quen với phong thổ cao nguyên, rủ rê nhau kéo lên lập nghiệp thì người Pháp lại hạn chế
việc thiên di của dân Việt.

Nói chung, người Pháp muốn tách biệt Đà Lạt và Tây nguyên ra khỏi xu thế phát triển về các mặt văn hóa xã hội của Việt Nam nên ra sức hạn chế ảnh hưởng của ngườì Việt Nam, thuyết phục Quốc trưởng Bảo Đại ban hành chỉ dụ thành lập Hoàng triều cương thổ bao gồm các đạo (tỉnh nhỏ) Kontum, Gia Lai, Darlac, Haut Donnai tách ra khỏi xứ bảo hộ Trung Kỳ, bắt buộc công dân Việt Nam ba kỳ trung, nam, bắc muốn lên Đà Lạt phải xin cấp "giấy chu lưu" (một hình thức chứng từ y như passeport, hộ chiếu xuất nhập cảnh). Sau năm 1955, người Pháp ra đi, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa được thành lập, vùng Tây nguyên mới trở lại với quy chế hành chánh chung cho cả nước và được chia thành các tỉnh Kontum, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Tuyên Đức, Quảng Đức và thị xã Đà Lạt. Ngày nay, dưới chế độ xã nghĩa, Kontum và Pleiku hợp nhất thành tỉnh Gia Lai - Kontum, Buôn Ma Thuột là tỉnh Đắc Lắc, Tuyên Đức là tỉnh Lâm Đồng, Quảng Đức là tỉnh Đắc Nông, và Đà Lạt trở thành thành phố trực thuộc trung ương.

Từ ý định ban đầu mở mang Đà Lạt thành trung tâm nghỉ mát cho toàn xứ Đông Dương, người Pháp chú tâm tới vị thế đặc biệt của Đà Lạt về phương diện địa chính trị và dần dà nghĩ đến việc chuyển trung tâm hành chánh của Đông Dương thuộc Pháp về Đà Lạt. Trước hết, Đà Lạt có ưu thế vượt trội so với các trung tâm thị tứ lớn khác ở Đông Dương về mặt khí hậu. Nhờ vào độ cao, khí hậu Đà Lạt ôn hòa, quanh năm không nóng không lạnh, rất dễ chịu đối với người Pháp vốn sinh trưởng trong vùng khí hậu miền ôn đới. Sài Gòn, Nam Vang, Vạn Tượng nóng quanh năm, Huế thì ẩm ướt, Hà Nội dễ chịu về thu đông nhưng rất nóng bức về hè. Nhưng quan trọng bậc nhất là về mặt địa lý nhân văn.

Đà Lạt là một thành phố mới được chính quyền thuộc địa Pháp xây dựng, mang đậm dấu ấn phương tây, lại ở vào vị trí không nam không bắc, trung độ giữa đông giữa tây, cho nên đối với cả năm xứ Đông Dương thuộc Pháp, việc lệ thuộc vào một trung tâm hành chánh đặt tại Đà Lạt không gợi lên một chút mặc cảm kỳ thị địa phương hay phân biệt đối xử nào trong tâm trí người bản xứ. Đối với người dân thuộc địa của năm xứ Đông Dương, Đà Lạt với phố xá, dinh thự xây cất theo kiến trúc Pháp, với lề lối sinh hoạt và giao tiếp theo phong cách Pháp, Đà Lạt là biểu trưng của nước Pháp. Thời đó, thanh niên nam nữ Việt Nam ba kỳ Trung Nam Bắc lên Đà Lạt theo học các trường Lycée Yersin hay Couvent des Oiseaux đều có cảm giác như là đặt chân lên chính đất Pháp vậy.

Người Miên, người Lào đến Đà Lạt không có mặc cảm bị phụ thuộc vào Việt Nam, mà người Việt Nam dù từ miền nam hay từ miền bắc đến Đà Lạt cũng không hề còn có chút bận bịu vấn vương về các mâu thuẫn địa phương. Người Pháp đã thiết lập ở Đà Lạt sở Địa chính Đông Dương và xây dựng phủ Toàn quyền với quy mô to lớn. Trong thực tế, suốt Thế chiến thứ hai, từ 1939 đến 1945, phủ Toàn quyền và một số cơ sở liên bang đã được chuyển về Đà Lạt. Có thể nói, trong khoảng thời gian này, Đà Lạt là thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp.

Sau ngày 9-3-1945, chính quyền thuộc địa Pháp bị quân đội Nhật lật đổ, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố bãi bỏ Hòa ước Patenôtre, tướng De Gaulle đã phản ứng lại bằng dự án thiết lập Liên bang Đông Dương với giải pháp Duy Tân, dự tính đưa cựu hoàng Duy Tân về Huế thay thế Bảo Đại, tiếp tục chia cắt Việt Nam làm ba xứ Trung Nam Bắc kỳ, cùng với hai xứ Miên Lào kết hợp thành Liên bang Đông Dương, và đặt thủ đô liên bang tại Đà Lạt. Rất không may cho người Pháp, trên đường về thăm nhà ở đảo Réunion trước khi trở về Việt Nam, cựu hoàng Duy Tân đã tử nạn khi bay ngang qua Phi châu trong một vụ trục trặc máy móc khó hiểu.

Ngày hôm sau, chúng tôi đồng loạt thức dậy sớm theo tiếng chuông báo thức. Sau bữa điểm tâm với bánh mì, pâté, jambon y hệt như ở trường Quân y Hà Nội, chúng tôi được Đại úy Nguyễn Ngọc Khôi đưa đến Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt trình diện nhập khóa. Chúng tôi được lệnh mặc quân phục làm việc mùa hè, quần áo vải kaki, mũ béret đen, giày da đen. Hồi đó phục sức trong quân ngũ vẫn giữ nguyên theo chế độ thời thuộc địa, phân chia làm hai vùng: Bắc kỳ, Trung kỳ và Lào mùa hè mặc đồ vải kaki, mùa đông mặc đồ dạ, Nam kỳ và Cao mên, quanh năm chỉ mặc đồ vải kaki.

Xe chở chúng tôi quành ra bờ hồ, qua cầu nhỏ, leo con dốc cuối hồ rồi chạy ngược lên theo một con đường rất đẹp có nhiều biệt thự, và cuối cùng đi vào giữa một khu rừng thông bạt ngàn. Doanh trại trường võ bị hiện ra, xe chúng tôi vượt qua cổng trường tiến vào bên trong. Toàn bộ nhà cửa khu doanh trại này đều bằng gỗ, từ kèo cột, rui mèn cho đến trần nhà, vách ngăn, tất cả đều bằng gỗ thông. Những thân cây thông thẳng tắp giữ nguyên võ được cắt bằng đầu, sắp theo chiều ngang, chồng sít sao lên nhau để làm tường nhà. Chúng tôi xuống xe và sắp hàng trước Bộ chỉ huy để trình diện Đại tá Chỉ huy trưởng.

Lúc bấy giờ, quân đội Việt Nam đang ở vào thời kỳ mới thành hình, và còn do người Pháp trực tiếp chỉ huy. Các đơn vị thuần túy do sĩ quan Việt Nam chỉ huy chỉ mới lên tới cấp tiểu đoàn, phần lớn là tiểu đoàn khinh binh. Tất nhiên lúc này vị Đại tá Chỉ huy trưởng Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt là người Pháp. Sau nghi thức trình diện, chúng tôi được hướng dẫn đi thăm doanh trại nhà trường, gặp gỡ các huấn luyện viên, phần đông là sĩ quan người Việt cấp bậc Trung úy. Trường võ bị này được thành lập để đào tạo sĩ quan cho quân đội Việt Nam, khởi nguyên được thiết lập ngày 6-6-1948 tại Huế trên cơ sở của Nha Thương chính Trung kỳ, gọi là Trường Sĩ quan Việt Nam Hiện dịch, nhưng vì tọa lạc bên bờ sông Hương ngay đầu Đập Đá nên dân chúng quen gọi là trường Sĩ quan Đập Đá. Khóa đầu tiên ra trường ngày 1-6-1949 gồm có 53 Thiếu úy hiện dịch. Hoạt động được hai khóa thì có quyết định của chính quyền di chuyển trường lên Đà Lạt. Tại đây, trường mở khóa 3, đổi tên là Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, và tiếp tục mở các khóa huấn luyện tiếp theo. Thời cộng hòa, trường lại đổi tên là Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam, tiếp tục hoạt động cho đến năm 1975 khi miền nam mất vào tay cộng sản miền bắc. Điều kiện tuyển sinh và chương trình giảng dạy được cải tiến toàn diện.

Thoạt đầu, ứng viên chỉ cần có học lực tương đương bậc trung học đệ nhất cấp, và thời gian thụ huấn chỉ kéo dài trong vòng một năm, chương trình học tập cũng thuần túy quân sự. Về sau, ứng viên phải có bằng tú tài toàn phần, thời gian thụ huấn là 4 năm, và chương trình học tập ngoài phần quân sự còn bao gồm phần văn hóa tương đương trình độ cử nhân, đào tạo người sinh viện tốt nghiệp từ trường Võ bị Quốc gia Việt Nam thành một sĩ quan cấp Thiếu úy văn võ kiêm toàn.

Liên đội Quân y chúng tôi ăn ở tại trường Thiếu sinh quân, ngày ngày hai buổi sáng chiều xe GMC chở vào Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt thụ huấn quân sự. Chúng tôi bắt đầu làm quen với một số môn học mới với những danh từ thuần túy chuyên môn chỉ áp dụng trong thuật ngữ của quân đội. Học về địa hình, chúng tôi biết thêm các danh từ talweg, vallée đối kháng với ligne de crête, sommet và hauteur. Về pháo binh và tác xạ, chúng tôi học phân biệt ligne de hausse với ligne de mire và point de mire, cũng như biết thế nào là charge, là pétard, là mìn định hướng, nhất là sự khác biệt về cấu trúc cũng như về công dụng giữa mìn phòng thủ với mìn tấn công. Chương trình huấn luyện vẫn là chương trình của quân đội Pháp, nhưng vì huấn luyện
viên phần đông là sĩ quan Việt Nam nên được giảng dạy bằng tiếng Việt, chỉ có các thuật ngữ quân sự là giữ nguyên tiếng Pháp kèm lời giải thích bằng tiếng Việt. Gặp môn học nào do huấn luyện viên người Pháp phụ trách thì chuyển ngữ sử dụng là tiếng Pháp.

Thời đó, thanh niên có trình độ trung học đều ít nhiều hiểu tiếng Pháp, nên lề lối học tập như vậy không gặp trở ngại nào. Đến phần chương trình học thực hành thì đơn giản và hào hứng hơn. Chúng tôi được dịp học tháo ráp vũ khí, từ thứ thông thường như súng colt, súng mousqueton, đến các thứ phức tạp hơn như mitraillette Thompson, đại liên F.M., và được thực tập bắn đạn thật với các thứ vũ khí đó. Chúng tôi lại còn được đốt trái pháo (petard), và bắn súng cối 81 ly.
Thực tập đốt "petard" thì mỗi học viên được phát một trái pháo, đem trái pháo cắm vào nơi đã chỉ định rồi châm lửa đốt và chạy nhanh trở lại nơi ẩn nấp.

Thực tập bắn súng cối 81 ly thì học viên được chia thành tổ 4 người, mỗi tỏ chỉ được cấp một quả đạn. Học viên trong mỗi tổ lần lượt thao tác việc lắp ráp các bộ phận rời vào nòng súng, như giá kê, bàn thối hậu, xong định hướng súng, chấm tọa độ, điếu chỉnh "ligne de hausse" v.v. Sau khi huấn luyện viên duyệt xét xong, học viên lại tháo rời các cơ phận ra đặt vào chỗ cũ để cho học viên tiếp theo làm lại các thao tác vừa kể. Sau khi cả 4 thành viên trong tổ được khảo hạch xong, bấy giờ súng để nguyên không phải tháo rời các cơ phận và một học viên trong tổ
được chọn để thả quả đạn vào trong nòng súng. Quả đạn bay phụt ra, đến mục tiêu thì nổ tung gây nên tiếng ầm vang lan tỏa ra cùng với lửa và khói. Hôm đó, Võ Tam Anh trong tổ của tôi được cắt cử việc thả quả đạn vào nòng súng, không hiểu sao quả đạn chỉ phụt ra khỏi nòng chừng 5 mét là rơi xuống đất ngay trước mặt chúng tôi, may mà không nổ! Huấn luyện viên lớn tiếng hô nằm xuống, chúng tôi nhoài người nằm rạp sát mặt đất. Quả tình mọi người phải một phen hú vía!

Những buổi học lý thuyết hay tập thực hành trong nhà thì chúng tôi được mặc quân phục làm việc, nhưng những lúc tham dự các buổi học tập ngoài trời thì chúng tôi phải mặc quân phục tác chiến. Áo quần giày mũ tác chiến này chúng tôi đã được cấp phát ngay từ lúc mới vào trường quân y nhưng thực sự chưa được chính thức dùng đến. Ngay cả lúc ra bãi sông Hồng tập đi đều bước dưới sự chỉ dẫn của ông Chuẩn úy già trong tuần đầu tiên nhập trường, chúng tôi cũng không phải mặc đồ trận. Nay được lệnh mặc quân phục tác chiến, nhiều người trong chúng tôi lúng túng thấy rõ.

Áo quần may từ bên Pháp, theo vóc vạc người châu Âu, nên lúc được cấp phát, người nào không chú tâm lựa chọn áo quần kích thước phù hợp thì nay như bơi trong đống áo xống thùng thình, trông rất ngộ nghĩnh, thật chẳng giống ai. Đến như đôi giày trận thời đó thì thật kinh khủng đối với những người thư sinh mặt trắng chúng tôi! Đây là đôi giày "săng đá" (brodequin) bằng da cứng không thấm nước, rất nặng, mặt dưới đế đóng dày dặc đinh sắt, đi trên mặt đất nghe rạo rạo, lộp cộp, rất khó buộc dây cũng như rất khó mang vào tháo ra. Giày "brodequin" thấp cổ, mang vào chân xong, chúng tôi túm ống quần lại và quấn ghệt (guêtre) quanh cổ chân. Ngang lưng quần mang "ceinturon" có cài các túi đạn và bi đông đựng nước.

Áo "treillis" vạt bỏ vào bên trong quần, cánh tay áo và cầu vai tháo hết phù hiệu và cấp bậc. Đầu đội mũ đi rừng (chapeau de brousse), vai khoác súng mousqueton hoặc mitraillette Thompson. Chúng tôi được lệnh tập họp thành hai hàng ngang trước sân hội trường để sĩ quan huấn luyện viên kiểm tra từ đầu đến chân mọi chi tiết trên quân phục tác chiến, và được chỉ bảo điều chỉnh lại các điểm khiếm khuyết chưa thật đúng với quân cách. Rồi thôi.

Chúng tôi không phải tập huấn các thao tác lưng đeo "sac marin", vai khoác súng trường, đầu đội nón sắt, leo thang, vượt tường, chạy vòng quanh doanh trại, hay trườn người tiến lên bên dưới hàng rào kẻm gai. Những giờ học tập tác chiến dã ngoại, chúng tôi không phải tham gia hành quân mà đi theo Đại tá Chỉ huy trưởng leo lên một ngọn đồi cỏ, ngồi nhìn xuống các lũng thấp quanh vùng, theo dõi các toán sinh viên sĩ quan Đà Lạt tập huấn, để nghe giảng giải về các
nguyên tắc căn bản điều quân chiến thuật. Chúng tôi đã được nhà trường dành cho một sự đối xử đặc biệt, quả nhiên là theo đúng lề lối và truyền thống trong quân đội Pháp về sự ưu ái và đãi ngộ dành riêng cho ngành quân y.  

Chúng tôi đến Đà Lạt chừng hai tuần lễ thì hòa đàm Genève đi đến thỏa hiệp đình chiến và chia cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Các sinh viên sĩ quan Quân y cũng như sinh viên sĩ quan Đà Lạt gốc Thừa Thiên Quảng Trị thở phào nhẹ nhõm vì bấy lâu cứ hồi hộp nghe các tin đồn về chia cắt có thể ở Tuy Hòa hoặc Đà Nẵng. Các sinh viên miền Bắc thì đón nhận tin tức bình thản hơn vì lẽ tất cả đều đã dự đoán nơi chôn nhau cắt rốn của mình đương nhiên là ở phía bắc đường phân cát. Hơn nữa, hầu hết đều đã được người thân liên lạc cập nhật tin tức về việc gia đình đang chuẩn bị di cư vào nam.

Mấy hôm sau, một vị Y sĩ Trung tá từ bộ Tư lệnh Đệ tam Quân khu vào Đà Lạt thăm liên đội Quân y chúng tôi, trình bày sơ lược về nội dung Hiệp nghị Genève, và thông báo cho chúng tôi biết Trường Quân y sẽ cùng các cơ quan quân sự khác ở Hà Nội di chuyển vào Sài Gòn. Vị Y sĩ Trung tá từ Hà Nội vào lại là người Hà Nội nên các sinh viên quê quán bên phần đất Tổ quốc bị chia cắt được dịp tíu tít hỏi thăm tình hình ngoài bắc. Tất cả sinh viên Quân y chúng tôi được cho biết là sau khóa huấn luyện quân sự 5 tuần lễ này, chúng tôi sẽ có giấy phép đi nghỉ hè 2 tháng như quy định, nhưng không được trở về phía bên kia vĩ tuyến 17, rồi sau đó về trình diện Trường Quân y tại cơ sở mới ở Sài Gòn, địa chỉ sẽ thông báo sau. Cũng vào dịp này, phòng Tâm lý chiến Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt tổ chức một tối văn nghệ trong khuôn khổ chương trình "tác động tinh thần" tại rạp hát thị xã có bán vé cho công chúng vào xem để gây quỹ xã hội cho nhà trường.

Vị Thiếu tá Trưởng phòng ngõ ý với Đại úy Nguyễn Ngọc Khôi mời sinh viên Quân y chúng tôi tham gia chương trình biễu diễn. Chúng tôi đồng ý đóng góp một màn kịch nói, và nhanh chóng thành lập ban kịch để cấp tốc soạn kịch bản, cử anh Nguyễn Thế Minh làm đạo diễn, tuyển chọn kịch sĩ "cây nhà lá vườn", và mời chị Đặng thị Trinh, sinh viên Dược Hà Nội đang nghỉ hè ở Đà Lạt, đóng một vai nữ để cho buổi trình diễn thêm phần sống động. Kịch bản được xây dựng theo chủ đề toàn dân "quyết tâm vào Nam tìm Tự do".

Đây là câu chuyện của cặp vợ chồng trẻ (chồng Hoàng Ngọc Khôi, vợ Đặng thị Trinh) bị dày vò, ray rức, phân vân giữa quyết định ra đi hay ở lại vì ý kiến khác biệt giữa hai đàng thông gia. Bên chồng, cụ Đồ (Nguyễn Thế Minh) khư khư ôm chặt đạo lý Thánh Hiền không muốn mọi người ra đi, rồi đây bàn thờ gia tiên ai hương khói? mồ mã ông bà ai trông nom? Bên vợ, ông Xã (Nguyễn Phú Duyệt) ý kiến ba phải, ra đi cũng được, ở lại cũng tốt, nhưng bà Xã (Hồ Văn Châm) thì dứt khoát quyết định ra đi, quê quán bà trên Phùng, trước đây bà đã chết khiếp chứng kiến cảnh đấu tố man rợ của các đội cải cách ruộng đất khắp các làng mạc vùng quê xứ Đoài. Sau màn đối thoại cân nhắc hơn thiệt với đầy đủ lời lẽ vừa có lý vừa có tình giữa hai đàng thông gia, trước một bối cảnh hậu trường đèn đuốc bập bùng, tiếng gọi ơi ới của đoàn người đông đảo
quyết tâm vào Nam tìm Tự do, chàng trai nông dân lực lưỡng dìu ông Đồ già áo the vắt vai, khăn xếp đội đầu, nhập vào đoàn người tất tả xuôi nam, theo sau là bà Xã, và cô con gái, cả hai chân quê áo tứ thân khăn mỏ quạ, kéo tay ông Xã quần xắn móng lợn, thúc dục ông đi nhanh cho kịp mọi người.

Buổi trình diễn văn nghệ của Trường Võ bị rất thành công. Khán giả thị xã Đà Lạt vốn chỉ có các rạp chiếu phim ciné và rạp Ngọc Hiệp chuyên hát cải lương để mua vui, nay có dịp thưởng thức một chương trình văn nghệ ca nhạc kịch nên như người lâu ngày ăn cơm được thay đổi món ăn lạ miệng. Điều thú vị là màn kịch nghiệp dư của sinh viên sĩ quan Quân y được hoan nghênh nhiệt liệt, nhất là từ phía khán giả phái nữ. Phải chăng vì biết các diễn viên đều là bác sĩ tương lai nên cảm quan của họ khi thưởng thức nghệ thuật phần nào bị thiên lệch bởi cảm tình riêng tư chi phối? Dù sao thì nội dung vở kịch của chúng tôi cũng lành mạnh, lại rất phù hợp với không khí chính trị lúc bấy giờ.

Các diễn viên đều làm tròn nhiệm vụ, thực hiện trọn vẹn vai tuồng của mình. Bản thân tôi thủ vai một bà nhà quê gốc gác xứ Đoài đất Bắc, nhờ vào vóc dáng nhỏ nhắn gói gọn trong tấm áo tứ thân và khuôn mặt trắng trẻo trùm kín dưới vòm khăn mỏ quạ, lại thêm giọng nói con trai xứ Huế cố ý nhại giọng Bắc kỳ, nên ai ai cũng tưởng tôi đúng là người đàn bà từ trên Phùng xuống. Ông Xã Nguyễn Phú Duyệt thường ngày nét mặt vốn lầm lì, râu ria lại rậm rạp, nay được căn dặn là sáng hôm đó không được cạo râu nên lúc lên sân khấu không cần hóa trang cũng ra dáng là một nông dân chất phác, ba phải.

Đặc biệt là cụ Đồ Nguyễn Thế Minh, áo the khăn xếp, mặt trắng lưng dài, khi cao giọng ngâm thơ Lý Bạch "Quân bất kiến Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai, Bôn lưu đáo hải bất phục hồi", rồi quay sang hỏi ông thông gia: "Làm chi cho mệt một đời, phải không a cụ?" đã được khán giả rào rào vỗ tay tán thưởng. Đôi vợ chồng Hoàng Ngọc Khôi, Đặng thị Trinh trẻ trung, khoẻ mạnh, tuy làm dáng chân quê nâu sồng, nhưng vẫn không che dấu được cốt cách trai tuấn tú, gái diễm kiều, rất được lòng khán giả mọi lứa tuổi. Sáng ngày hôm sau, Đại úy Nguyễn Ngọc Khôi thay mặt bộ Chỉ huy Trường Võ bị cám ơn liên đội sinh viên Quân y chúng tôi, và ngõ ý muốn trích một phần tiền bán vé để chiêu đãi anh em, nhưng chúng tôi từ chối, xin để hoàn toàn dành cho quỹ xã hội nhà trường. Ngoài chị Trinh là người bên ngoài được mời tham gia ban kịch, tất cả các diễn viên đều là "cây nhà lá vườn".

Trong khuôn khổ chương trình thụ huấn quân sự tại Trường Võ bị Đà Lạt, chúng tôi thường được đưa đi thăm các danh lam thắng cảnh trong vùng, nơi gần ở ngay tại thị xã, đi về trong một buổi, nơi xa ở mãi tít tắp trên đỉnh Lang Biang, thời gian du ngoạn kéo dài hai ngày, cả đoàn phải cắm lều ngủ qua đêm giữa chừng lộ trình. Chúng tôi mặc quân phục tác chiến, mang theo trên mình súng ống đạn dược cá nhân. Các điểm tham quan gồm đủ mọi hạng mục, từ phong cảnh thiên nhiên sông suối, núi rừng đến các công trình nhân tạo dinh thự, đập nước. Rừng thông, đồi cỏ thì giáp mặt hằng ngày.

Nơi cư ngụ là Trường Thiếu sinh quân Đà Lạt nằm bên cạnh sân cù, giữa vùng đồi cỏ xanh mướt kéo dài mãi tới mút tầm mắt, chúng tôi sáng sáng thức dậy mở cửa bước ra là được thưởng thức cái bao la mát mẻ trong xanh của đất trời vô cùng vô tận. Mỗi ngày trên xe đến lớp học tại Trường Võ bị Liên quân, qua khỏi hồ Đà Lạt và khu biệt thự đường Trần Hưng Đạo là chúng tôi cảm thấy tâm hồn lâng lâng khi thân xác nương theo đà xe băng qua những rừng thông bạt ngàn, xúc giác và khứu giác đắm chìm trong bầu không khí nức mùi tùng hương dìu dịu hăng hắc. Vậy mà đến những buổi du ngoạn ngoài trời, chúng tôi vẫn cảm thấy như lạc vào một thế giới khác, thế giới của tĩnh lặng, của mộng mơ, của không gian tinh khiết, của hoa cỏ xanh tươi, của thác nước cheo leo, của rừng cây hùng vĩ. Ngày ấy, dân số Đà Lạt còn rất khiêm tốn, việc thiên di từ dưới đồng bằng lên bị hạn chế và việc cư trú xây nhà lập vườn bị kiểm soát gắt gao nên phong cảnh Đà Lạt còn bảo lưu được cái vẻ hoang sơ rất thơ mộng không tì vết vì bàn tay vô ý thức của con người. Ngay như con suối nhỏ róc rách quanh co qua những bậc đá gập ghềnh tạo thành thác Cam Ly khiêm tốn giữa lòng thị xã cũng không có một cọng rác hay một mẩu giấy vụn ven bờ.

Hồ Than thở mé sau Trường Võ bị, trên con đường mòn dành cho khách săn thú (piste de chasse) cũng đủ rộng để được gọi là hồ, và cũng đủ tịch mịch để có thể thoảng nghe tiếng gió thổi qua tàn cây mà đặt tên hồ là Hồ Than thở (Lac des Soupirs). Mé bên kia hồ, mấy cái nhà gỗ kiểu chalet Thụy sĩ làm tăng vẻ thơ mộng cho cảnh quan chung quanh hồ. Ra xa chút nữa là mấy trang trại nho nhỏ của người Pháp, có con chó berger chạy ngược lên đồi vừa chạy vừa sủa, có lũ trẻ con Tây trắng trẻo xinh xắn đùa giỡn bên trong vòng rào, và có mấy cô đầm con thập thò sau cánh cửa, nửa như khép hờ, nửa như bỏ ngõ, thực thực hư hư, vô cùng thơ mộng. Thác Prenn thì cũng chỉ là dòng suối nhỏ có đoạn thác nước chảy tràn qua một khối đá rộng, cũng như thác Liên Khàng, tuy gọi là thác nhưng mực nước chênh lệch không đáng kể, nên thực chất chỉ là một đoạn sông nhỏ chảy qua một vùng đất đá gập ghềnh, lô nhô trồi đầu ngổn ngang trên mặt nước. Đến như thác Gougah, và nhất là thác Pongour thì thực sự là những thác nước hùng vĩ, tuy không vĩ đại như các thác nước nổi tiếng của nước ngoài, nhưng cũng tạm gây ấn tượng đáng kể trong lòng khách đến tham quan.

Chúng tôi còn đến thăm ấp Đa Thiện trong thung lũng Dran (Đơn Dương), xuôi đèo Bellevue (Ngoạn mục), và leo lên đỉnh Lang Biang. Đèo Bellevue dài xấp xỉ đèo Hải vân, cũng có nhiều cung đường ngoằn nghèo nguy hiểm, chênh vênh giữa một bên là sườn núi cao, một bên là bờ vực thẳm. Du ngoạn lên đỉnh Lang Biang thì chúng tôi cắm trại thổi cơm ăn tối và ngủ qua đêm ở dưới chân núi, sáng sớm hôm sau mới leo lên đỉnh. Sinh viên Quân y chúng tôi được chia thành từng nhóm 3 người, cùng nhau dựng chung một căn lều để ngủ, cùng nhau thổi cơm chung một bếp lửa để ăn. Tôi chung nhóm với hai anh Chu Tất Đắc và Nguyễn Khái, cả hai anh đều học trên tôi một lớp, và cùng vào trường Quân y trước tôi một năm. Chóp núi Lang Biang có 3 đỉnh, nhìn từ xa tưởng như đều có cao độ sàn sàn với nhau.

Đường mòn lên núi dẫn đến đỉnh thấp nhất rồi băng qua đỉnh giữa và sau đó mới dẫn lên đỉnh cao nhất. Trên đỉnh nầy không có công trình xây cất gì, chỉ có một cây thập tự bằng gỗ dựng trên một đống đá. Các chuyến đi chơi qua núi qua đèo tuy vất vả nhưng thật là vui. Quanh năm sống gò bó trong lòng các đô thị chật chội và nắng nóng, bây giờ thung dung giữa núi đồi bát ngát, không khí trong lành, chúng tôi thả lõng tâm hồn, hầu như quên cả thời gian. Có lần đi du ngoạn thác Gougah, tôi và Võ Tam Anh mãi mê đi sâu vào cánh rừng thưa ven bờ thác, say sưa với hương vị quyến rũ của gió núi cây ngàn mà quên giờ giấc trở về, đến khi nghe tiếng máy xe GMC nổ ngoài xa mới sực tỉnh vội vàng chạy về điểm tập họp. Biết chắc là dù chạy nhanh đến đâu chăng nữa thì cũng không thể về kịp điểm hẹn trước khi xe chạy, tôi nhanh trí tháo súng carbine khỏi vai đưa lên trời bắn một tràng đạn. Quả nhiên ngoài kia tiếng máy xe ngưng nổ. Chạy về đến nơi, tuy bị anh em xỉ vả một trận nên thân, nhưng chúng tôi mừng không bị lỡ xe phải ngủ lại giữa rừng nên vui vẻ cười trừ.

Xen kẻ giữa những lần du ngoạn thắng cảnh thiên nhiên là những buổi tham quan các công trình nhân tạo đặc thù của vùng Đà Lạt như sở Địa chính Đông Dương, dinh Toàn quyền, biệt điện Quốc trưởng, dinh Thống đốc Nam kỳ, lăng Long mỹ quận công Nguyễn Hữu Hào, đập nước Dankia, nhà ga xe lửa Đà Lạt v.v. Lúc bấy giờ Quân đội Quốc gia Việt Nam đang ở vào thời kỳ phôi thai, nằm gọn trong vòng tay chỉ đạo của người Pháp, trường Võ bị Liên quân Đà Lạt do sĩ quan Pháp chỉ huy, nên việc tham quan các cơ sở trọng yếu trong vùng Đà Lạt nhà trường tổ chức cho chúng tôi không phải đơn thuần nhằm mục đích giúp chúng tôi thư giản tinh thần mà hậu ý chủ yếu là để chúng tôi có dịp biết đến trình độ kỷ thuật và thiện chí "khai hóa" của nhà chức trách Pháp đối với thuộc địa Đông Dương.

Lấy thí dụ buổi du ngoạn thác nước Dankia. Vùng này tương đối cao và bằng phẳng, hồi mới dự tính thiết lập trung tâm nghỉ mát trên cao nguyên Lang Biang chung cho 5 xứ Đông Dương, nhà chức trách đương thời đã có ý định chọn nơi này làm nơi xây dựng. Cảnh quan không có gì kỳ tú để được xếp vào hạng mục thắng cảnh, chẳng qua chỉ là một dòng suối đầu nguồn có con đập chắn ngang giữ nước lại thành hồ Dankia để một phần cho chạy tourbine một nhà máy phát điện nhỏ, phần còn lại dùng vào việc tưới vườn tưới ruộng quanh vùng. Quy mô tưới nước và năng xuất phát điện của đập nước Dankia đem so sánh với đập nước Danhim xây dựng sau này dưới thời cộng hòa thì muôn phần chưa được một.

Tuy vậy, đập nước Dankia đã nói lên thiện tâm thiện chí của nhà cầm quyền thuộc địa trong kế hoạch mở mang diện tích trồng trọt, đem nước đến các nơi khô cằn để tăng năng suất canh tác, cải tiến dân sinh, khai hóa dân trí. Đập nước Dankia là đập nhỏ nhất trong số một loạt các đập nước dẫn thủy nhập điền ở Trung kỳ thời thuộc địa: đập Bái Thượng trên sông Mã ở Thanh Hóa, đập Đô Lương trên sông Lam ở Nghệ An, đập Đồng Bò trên sông Đà Rằng ở Phú Yên. Về mặt số lượng thì các đập nước này so với các công trình thủy lợi hiện nay quả tình là rất khiêm tốn, nhưng về mặt hiệu quả tác dụng, nhờ vào sự thiết kế chính xác, rừng cây đầu nguồn được bảo vệ nghiêm túc, và mục tiêu sử dụng chủ yếu hướng về việc dẫn thủy nhập điền, nên không hề gây ra tai họa lũ lụt cho dân chúng, trái lại đã biến cải hàng vạn mẩu đất xấu tam đẳng điền thành ruộng tốt nhất đẳng điền.

(Xem tiếp phần 2)
ñà Låt Trong Kš ­c Tôi
DSC00066_small
rungthongdalat
dalat_waterfall
Ý kiến của QYHD Hoàng Ngọc Khôi, một nhân vật được nhắc đến trong bài viết này
VBQGDaLat56